Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với
bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp
kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, công
nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự
phát triển kinh tế xã hội nông thôn, khái niệm công nghiệp nông thôn mức chỉ nêu
ra từ những năm 70 thập kỷ này nhưng thực tế công nghiệp nông thôn đã được hình
thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn
liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu.
Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công
nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với
Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ
cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức
bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn
đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát
triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Từ thực tiễn và trên cơ sở tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, em đã
chọn đề tài nghiên cứu sau: “Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu
cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn
74 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp để đạt được các
mục tiêu cho thị trường tiêu thụ
sản phẩm công nghiệp nông thôn
lời nói đầu
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với
bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp
kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, công
nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự
phát triển kinh tế xã hội nông thôn, khái niệm công nghiệp nông thôn mức chỉ nêu
ra từ những năm 70 thập kỷ này nhưng thực tế công nghiệp nông thôn đã được hình
thành như một thực thể kinh tế độc lập với các trình độ phát triển khác nhau, gắn
liền với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn từ rất lâu.
Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển công
nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với
Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ
cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức
bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn
đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát
triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Từ thực tiễn và trên cơ sở tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, em đã
chọn đề tài nghiên cứu sau: “Một số giải pháp để đạt được các mục tiêu
cho thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp nông thôn”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 4 phần:
Chương I - Vai trò của thị trường đối với phát triển công nghiệp nông thôn.
Chương II - Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp nông
thôn nước ta.
Chương III - Giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công
nghiệp nông thôn.
chương I
vai trò của thị trường đối với
phát triển công nghiệp nông thôn
I. Định nghĩa công nghiệp nông thôn
1.1. Định nghĩa:
Một quan niệm coi công nghiệp nông thôn (CNNT) là công nghiệp đóng trên
địa bàn nông thôn, sử dụng chủ yếu các nguồn lực tại chỗ (vốn, nguyên liệu, lao
động,...) phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Không loại
trừ các trường hợp: một phần vốn hoặc nguyên liệu hay thậm chí cả lao động được
mang từ nơi khác tới và quá trình sản xuất được thực hiện ngay trên địa bàn nông
thôn.
Chúng tôi đồng tình với quan niệm này. Và như vậy, có thể coi CNNT là công
nghiệp ngoài quốc doanh, trừ công nghiệp ngoài quốc doanh ở một số đô thi lớn
như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng.
1.2. Các loại hình tổ chức của CNNT Việt Nam
Qua khảo sát ở một số địa phương cho thấy CNNT Việt Nam được tổ chức
dưới 3 dạng là hợp tác xã, công ty (công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp
tư nhân) và các hộ cá thể. Trong đó, tới khoảng 95-97% số cơ sở sản xuất được tổ
chức dưới dạng hộ cá thể (bao gồm cả hộ chuyên và hộ kiêm).
Hiện tại, ở nhiều địa phương CNNT đang có xu hướng chuyển hoá về loại
hình tổ chức. Cụ thể là:
- Các hợp tác xã, do sản xuất kém hiệu quả, trong quá trình chuyển đổi thành
HTX cổ phần (theo luật HTX) nhưng chưa tìm được hướng đi thích hợp nên không
phát triển được. Trừ một số HTX chuyển đổi thành công, chỉ khoảng 50%, số còn
lại hoạt động cầm chừng, hoặc không hoạt động, thậm chí phân rã và chuyển hoá
thành các cơ sở sản xuất tư nhân mà hình thức vẫn mang danh HTX (vì nhiều lý do
không giải thể được).
- Kể từ khi luật thuế giá trị gia tăng được thi hành, một số công ty tư nhân (bao
gồm cả công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân) do không trang trải được mức thuế
do Nhà nước qui định, đã xin ngừng sản xuất hoặc giải thể để trở về hình thức tổ
chức hộ cá thể, lý do là với loại hình tổ chức này, sẽ được nộp thuế theo hình thức
khoán (thường thấp hơn so với mức thuế được áp dụng cho các doanh nghiệp cùng
ngành nghề).
Tình trạng này khiến cho, nếu chỉ nhìn vào các con số thống kê đơn thuần, dễ
đi đến những nhận định sai lầm, không phản ánh được bức tranh thật của CNNT
Việt Nam.
1.3. Cơ cấu ngành nghề của CNNT Việt Nam
Kết quả khảo sát ở các địa phương, sau khi xử lý được trình bày bằng bảng
dưới đây:
Bảng 1: Cơ cấu ngành nghề
STT Các ngành nghề chính
Tỷ lệ về số lượng (%)
Tỷ lệ về
giá trị
(%)
Cơ sở có
đăng ký
Hộ phi
Nhà
nước
Hộ kiêm
1 Chế biến lương thực, thực
phẩm
28 35 37 36
2 Chế biến lâm sản 21 16 11 15
3 Chế biến nông sản khác 10 8 22 16
4 Cơ khí sửa chữa 6 17 4 8
5 Sản xuất Dệt - May 4 12 16 13
6 Sản xuất VLXD 21 8 6 10
7 Các ngành thủ công khác 4 3 1 3
Tổng cộng 100 100 100 100
1.4. Một số chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả của CNNT Việt Nam
Qua thống kê ở nhiều tỉnh (ở nhiều vùng kinh tế trong cả nước) một số năm
gần đây, giá trị sản xuất của CNNT thường chiếm từ 22-25% giá trị sản xuất của
công nghiệp toàn quốc. Năm 1998 đạt khoảng 20.000 tỷ.
- Giá trị gia tăng tính cho mỗi lao động trong các doanh nghiệp đạt khoảng
trên 7 triệu đồng. Còn ở các hộ gia đình phi nông nghiệp và các hộ kiêm, con số này
lần lượt là 6,5 triệu đồng và 4,5 triệu đồng.
Con số này là nhỏ so với giá trị khoảng trên 10 triệu đồng giá trị gia tăng tính
cho mỗi lao động mà các DNNN tạo ra. Nhưng thực tế, nó lại hiệu quả hơn nếu xét
ở góc độ vốn đầu tư, vì ở các DNNN, vốn đầu tư cho mỗi lao động thường gấp
khoảng 2 lần so với các DNNQD (14,5 triệu đồng) gấp 2,5 lần so với các hộ phi
nông nghiệp (8 triệu đồng) và gấp 7 lần so với các hộ kiêm (4 triệu đồng).
Trong khu vực chế biến nông sản, trong khi các DNNN ở nông thôn phía Bắc
chịu mức lỗ trung bình tương đương 13,8% doanh thu, hay mức lãi âm (lỗ) tính trên
vốn cố định trước thuế là 23%, thì các DNNQD có mức lãi trung bình trước thuế là
5,1% và mức lãi tính trên vốn cố định trước thuế là 27%. Tương tự như vậy, trong
khu vực công nghiệp và xây dựng (trừ ngành chế biến nông sản), trong khi các
DNNN (cùng hoạt động ở khu vực nông thôn) có mức lỗ trung bình tương đương
với 8,6% doanh thu, hay mức lãi âm (lỗ) tính trên vốn cố định trước thuế là 15% thì
các DNNQD trong cùng lĩnh vực có mức lãi trung bình trước thuế là 1,2% doanh
thu hay mức lãi tính trên vốn cố định trước thuế là 4,3%.
Một hiệu quả rất lớn nữa về mặt xã hội là thu hút lao động. Thường xuyen có
khoảng 2,2 triệu người và nguồn thu nhập chủ yếu từ các hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp và xây dựng (ở khu vực CNNT), chiếm 55% tổng số lao động trong
ngành công nghiệp và xây dựng toàn quốc.
Không có sự khác biệt về thu nhập trung bình của người lao động trong các
doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh đang hoạt động ở khu vực nông
thôn. Mức thu nhập thay đổi trong khoảng từ 160.000đ-260.000/đ/người/tháng. Con
số này cao hơn mức lương trung bình của cả nước là khoảng 230.000đ/người/tháng
(số liệu 1996).
Trong khi đó, mức thu nhập ở cách phi nông nghiệp và hộ kiêm còn cao hơn
nữa. Các con số tương ứng là 350.000đ và 300.000đ/người/tháng.
II. Vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông thôn Việt Nam
1. Công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển
nông thôn.
1.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn và công nghiệp nông thôn.
Trong lịch sử và cho đến nay, cơ cấu kinh tế Việt Nam được tổ chức gắn liền
với các ngành nghề và lãnh thổ như sau:
(1) Làng xã thuần nông nghiệp.
(2) Làng nông nghiệp, kiêm thêm nghề phụ.
(3) Làng chuyên các ngành nghề truyền thống, thí dụ như làng gốm sứ, làng
dệt, làng thêu ren, làng sơn mài, làng nghề chạm khắc bạc và gỗ, làng luyện đúc
kim loại.
(4) Làng nghề mới hình thành (ven đô thị, ven các trục đường giao thông) thí
dụ như các làng vận tải, làng xây dựng, làng may mặc, làng làm đồ da dụng cao cấp,
làng vật liệu xây dựng, làng chế biến và cung cấp thực phẩm cho các thành phố.
(5) Các cơ sở và doanh nghiệp phi nông nghiệp (trang trại, xí nghiệp phi nông
nghiệp ở các thị trấn, thị tứ) thường là quy mô nhỏ, thí dụ như các trạm giấy, trạm
sửa chữa cơ khí, ngân hàng huyện, chi nhánh điện, hạt giao thông, bưu điện, trường
học, y tế...
(6) Các xí nghiệp công thương nghiệp dịch vụ của tỉnh (thường là quy mô
nhỏ).
(7) Các xí nghiệp công thương nghiệp dịch vụ của trung ương đặt tại địa bàn
tỉnh và các thành phố (quy mô lớn).
Trong cơ cấu kinh tế hiện tại ở Việt Nam, có một thực thể bao gồm các hoạt
động phi nông nghiệp ở nông thôn với phạm vi trải rộng từ các dạng hình tổ chức
hoạt động kinh tế từ (2) đến (5) được quy ước là các dạng hoạt động công nghiệp
nông thôn.
1.2. Vai trò của công nghiệp nông thôn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
thực hiện công nghiệp hoá.
- Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp với các trình độ
khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông
thôn, bao gồm nhiều ngành nghề, đan xen chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là
sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động
phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn
mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp
ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp; các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã và các tổ hợp, tổ sản
xuất công nghiệp và thủ công nghiệp; các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế
biến lương thực thực phẩm hoặc các xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và
nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế địa phương (nông thôn).
- Công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, hiện đang thu hút 60%
tổng số lao động và tạo ra khoảng 40% giá trị tổng sản lượng của tiểu thủ công
nghiệp trong cả nước. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành hoàn thiện và
mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng quy mô của quá
trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với
sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, nó có tác động đến sản xuất nông nghiệp ở cả
đầu vào lẫn đầu ra trong sản xuất nông nghiệp.
+ Tác động ở đầu vào: tại vị trí đầu vào, công nghiệp nông thôn cung cấp cho
sản xuất nông nghiệp điện để mở rộng hoạt động hệ thống tưới tiêu, mở rộng diện
tích canh tác thúc đẩy áp dụng các loại máy động lực phục vụ công tác chế biến
nông sản phân hoá học là yếu tố đầu vào quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp,
nhất là đối với các loại giống lúa mới, các loại máy nông nghiệp phục vụ công tác
làm đất, chăm sóc cây trồng, bơm nước, chống úng.
+ Tác động ở đầu ra: Công nghiệp nông thôn cung cấp máy và công cụ phục
vụ thu hoạch phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến và vận chuyển nông sản trước khi
tới tay người tiêu dùng. Công nghệ sau thu hoạch bao gồm nhiều công đoạn từ thu
hoạch phân loại, chế biến, bảo quản nông sản phẩm.
* Những thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển.
- Hiện nay khu vực nông thôn vẫn đang ở trong tình trạng xuất phát thấp khi
chuyển sang giai đoạn mới: GDP từ nông nghiệp chỉ chiếm 30% tổng sản phẩm
quốc nội, thu nhập bình quân một lao động/tháng chỉ khoảng 100.000đ thấp hơn rất
nhiều so với thành thị. Thêm vào đó tình trạng phân hoá lớn giữa khu vực thuần
nông và phi thuần nông.
- Khu vực nông thôn tỷ lệ người nghèo còn quá lớn: thành thị số hộ nghèo đói
khoảng 2,4%, còn nông thôn 35 - 40%, đặc biệt vùng cao, vùng xa.
- Sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực nông thôn: Đồng bằng sông
Cửu Long, miền đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng là ba khu vực tương đối phát
triển, còn lại là khu vực chậm phát triển.
- Sự bùng nổ ngành nghề ở nông thôn với vấn đề môi trường sinh thái.
- Vấn đề tỷ lệ thất nghiệp cao ở nông thôn trên 15%.
Từ việc phân tích những thách thức này để xác định được những đòi hỏi của
thị trường, đi tìm khu vực thuận lợi để sản xuất các mặt hàng, sau đó mới triển khai
phát triển các công nghiệp nông thôn.
* Những điều kiện tiền đề cho công nghiệp hoá nông thôn.
- Quá trình phân công lao động trong nông thôn phải thực sự chuyển đổi mạnh
mẽ theo hướng giỏi nghề nào làm nghề đó, không nên quá phụ thuộc vào nghề
nghiệp thuần nông. Sau cải cách ruộng đất, việc chia đều ruộng đất cho mọi người
dân, sẽ diễn ra quá trình tập trung ruộng đất vào trong tay một số trung nông làm ăn
giỏi phát triển thành nhà quản lý trang trại, còn bộ phận nông dân vốn có ruộng đất
nhưng không có khả năng canh tác buộc phải chuyển nhượng ruộng đất để sẵn sàng
chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Muốn vậy cần có thể chế cho tồn tại thị
trường, trao đổi, chuyển nhượng ruộng đất và thị trường lao động ở nông thôn.
- Năng suất lao động trong nông nghiệp phải đủ cao để nuôi sống số người
không có việc làm nông nghiệp, nhưng chưa tìm được việc làm phi nông nghiệp mà
vẫn không phải quay về làm nghề nông. Điều kiện này giúp duy trì một đội ngũ
những người lao động nông nghiệp bị bứt ra khỏi hoạt động nông nghiệp làm tăng
sức ép tạo ra các việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn.
- Phải có các trung tâm ngành nghề mới (phi nông nghiệp), thương mại dịch
vụ được mở ra với thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp để thu hút lao động nông
nghiệp.
- Văn hoá, tâm lý, tập quán của nông dân địa phương phải phù hợp và thuận
lợi cho việc di chuyển ngành nghề chuyển đổi lao động, yếu tố này cũng hình thành
nên nhu cầu chi phối sự phát triển của các hoạt động nông nghiệp hay phi nông
nghiệp.
2. Công nghiệp nông thôn một số nước và lãnh thổ trên thế giới.
2.1. Trung Quốc.
Công nghiệp nông thôn Trung Quốc hình thành và phát triển theo phương
châm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” được biểu hiện ở sự phát
triển của các xí nghiệp hương trấn. Xí nghiệp hương trấn là một hình thức mới của
công nghiệp hoà nông thôn mang màu sắc Trung Quốc đã góp phần đẩy mạnh tốc
độ, công nghiệp hoá đất nước, làm giảm sự chênh lệch giữa thành thị nông thôn, đời
sống công nhân nông dân.
Xí nghiệp hương trấn từ sản xuất thủ công và chế biến sản phẩm phụ nông
nghiệp đã phát triển thành 5 ngành: công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp,
công nghiệp kiến trúc, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ thương nghiệp, có
quy mô tương đối lớn.
- Đặc điểm: - Xí nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh.
- Thực hiện chế độ phân phối làm nhiều hưởng nhiều.
- Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, chế độ hợp
đồng đối với công nhân.
- Quan điểm về kinh tế hàng hoá mạnh.
- Khả năng ứng biến thích nghi với thị trường.
- Chú trọng sản phẩm mới và ứng dụng công nghệ mới.
- Vấn đề tồn tại: - Xí nghiệp hương trấn phân bố không đồng đều ở các vùng.
- Lãng phí vốn xây dựng thừa năng lực sản xuất, khó tiêu
thụ sản phẩm.
- Chất lượng sản phẩm xí nghiệp kém, mất uy tín.
- Trang bị kỹ thuật lạc hậu, chắp vá.
- Gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái của nông
nghiệp.
- Vai trò: - Lợi nhuận các xí nghiệp hương trấn hỗ trợ cho công việc
nông nghiệp dưới hình thức lấy công bù nông, lấy công
dựng nông.
- Tăng thu nhập cho nông dân, tăng đầu tư của nông dân
cho nông nghiệp.
- Thu hút số lượng lao động dôi thừa của nông nghiệp.
2.2. ấn độ.
- ấn Độ phát triển công nghiệp nông thôn trên cơ sở tư nhân và hợp tác ở vùng
nông thôn và đã đề cập đến các lợi thế của khu vực công nghiệp nhỏ trong nền kinh
tế như đảm bảo việc làm tối đa ở quy mô lớn, tạo ra một phương thức bảo đảm phân
chia hợp lý hơn thu nhập quốc gia và huy động có hiệu quả các nguồn lực, vốn và
tay nghề còn chưa được sử dụng hết.
- ở ấn Độ, công nghiệp nông thôn được hiểu là những xí nghiệp mà nhu cầu
vốn tín dụng không quá 25.000 rupi, bao gồm thủ công nghiệp và các xí nghiệp nhỏ
mà hoạt động của chúng là chế tạo, chế biến và bảo quản và các hoạt động dịch vụ ở
các làng và thị trấn nhỏ.
- Các xí nghiệp này sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và tay nghề sẵn có của
địa phương.
- Các hoạt động công nghiệp nông thôn bao gồm một loạt các ngành chế biến
sản phẩm sơ cấp (lương thực, thực phẩm, các hoạt động gắn với nông nghiệp và
khai thác mỏ...), các xưởng chế tạo cho nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng tiêu
thụ ở nông thôn chính với những ngành công nghiệp mà người nghèo có thể tham
gia dễ dàng hơn.
- Khuyến khích phát triển ngành thủ công nghiệp độc lập và mỹ nghệ dân gian
mà ấn Độ có truyền thống rất phong phú.
- Thành lập các trung tâm công nghiệp huyện cung cấp mọi sự giúp đỡ cần
thiết cho xí nghiệp nông thôn: tiềm năng khu vực, máy móc thiết bị, tín dụng, đào
tạo...
2.3. Đài Loan.
Đài Loan rất chú trọng vào phát triển nông thôn với phương châm “công
nghiệp hỗ trợ nông nghiệp phát triển. Nhà nước đã ra các chính sách phát triển công
nghiệp để hỗ trợ cho nông nghiệp.
- Bãi bỏ việc dùng lúa đổi lấy phân bón hoá học.
- Hủy bỏ các khoản phụ thu thuế ruộng.
- Giảm nhẹ lãi suất tín dụng nông nghiệp.
- Cải thiện điều kiện giao thông chuyển chở nông sản.
Đài Loan đã biết kết hợp nhuần nhuyễn cả hai quan niệm đặt sự phát triển của
công nghiệp nông thôn trên nền tảng và trong quan hệ khăng khít với công nghiệp
ngay từ đầu của quá trình công nghiệp hoá.
Chương II
Thực trạng tiêu thụ sản phẩm
cho CNNT ở nước ta
I. Thực trạng ttsp ở thị trường nước ngoài.
Theo báo cáo tổng cục hải quan tính đến ngày 20/11/99 tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của việt nam là 19,945 tr USD nhập siêu 1,4% tổng tiêu ngạch. Trong đó
xuất khẩu 9,903tr USD, nhập khẩu 10,042 tr USD
Biểu 2: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam - 1999
STT Mặt hàng XK
Khối lượng
(triệu tấn)
Trị giá
(triệu USD)
1
2
3
4
Gạo
Cà phê
Cao su
Dệt may
4,23
0,3787
0,210
965
477
114,9
1.489
Trên cơ sở tổng hợp và phân tich tình hình dự báo, các chuyên gia bộ thương
mại báo cáo tổng kim ngạch xuất khẩu 1999 ước11ty USD, tăng 17,5% so với
1998, vượt 10,5% so với kế hoạch. Trong đó DNVN 8,55 ty USD, chiếm 77,7%,
tăng 15,8%, dn có vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 ty USD chiếm 22,3%, tăng 23,6%.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: gạo, dệt may, cà phê. Tính đến tháng 11/99 4 mặt
hàng công nghiệp đạt giá trị KNXK trên 1ty USD là: dầu thô,dệt may,da giầy, gạo.
Một số mặt hàng tuy KN chưa lớn nhưng có mức tăng cao: máy động lực, máy công
nghiệp, sữa bột,dầu thực vật. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực
hơn: tỷ trọng nguyên liệu thô và sơ chế giảm.
Biểu 3: Tỷ trọng ngành hàng xuất khẩu
STT Ngành Tỷ lệ %
Giá trị
(triệu USD)
1
2
3
4
5
Nông lâm sản
Hải sản
Dệt may+Da giầy
Thủ công mỹ nghệ
Lĩnh vực khác
18,2
8,6
28
1,5
19,4
2000
950
3100
180
2130
1. Ngành cà phê
Theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) niên vụ cà phê
1998-1999 Việt Nam XK 404.206 tấn cà phê nhân, tăng so với 97/98 khoảng
10.000 tấn.
Biểu 4: Danh sách 10 công ty XK cà phê lớn nhất Việt Nam
STT Doanh nghiệp
Khối lượng
(tấn)
Giá trị
(triệu USD)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
VINA cà phê
Công ty 2/9
Enxim Đắc Lắc
Công ty TM du lịch Hiệp Phước
Công ty XNK Gia Lai
Công ty Tín Nghĩa
Công ty cà phê Phước An
Công ty PETEC
Công ty Thắng Lợi
Công ty TM XNK Gia Lai
52.300
51.789
46.184
28.740
26.044
20.268
17.131
13.027
9.880
9.803
72,277
70,509
64,174
40,7
34,2
27,1
24,036
17,853
14,194
13,18
Những cây cà phê đầu tiên được trồng trên đất Việt Nam là do các giáo sỹ
truyền giáo đưa vào trồng từ năm 1857 ở khu vực các nhà thờ tu viện thiên chúa
giáo thuộc 2 tỉnh Quảng Bình,Quảng Trị. Đến cuối thế kỷ 19 các đồn điền trồng cà
phê đầu tiên là ở các tỉnh miền bắc: Hà Nam,Sơn Tây, Hoà Bình, Tuyên Quang,
Phú Thọ, Phủ Quỳ. Vào những năm 1920-1925 khi phát hiện ra vùng cao nguyên
Bazan ở miền trung.Người ta mới mở ra các đồn điền cà phê ở Tây Nguyên. Nhưng
cả một thời gian dài diện tích trồng cà phê c