Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn
sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một
cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công
tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp
phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng
vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp
cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh
nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc
bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh
nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế
hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như:
vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù. nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà
nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu.
Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành
phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không
bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ
vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế.
Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3082 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Lời nói đầu
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn
sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một
cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công
tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp
phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng
vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp
cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh
nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc
bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh
nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế
hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như:
vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù... nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà
nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu.
Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành
phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không
bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ
vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế.
Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý.
Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung,
kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên cứu của đề tài là
đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động thực tế
của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm nghiên cứu số liệu
lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001.
3. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và nhận xét của cơ
sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương:
Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của
các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở
Công ty In tài chính
Chương 1
Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
1. Vốn cố định trong các doanh nghiệp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày
càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh
tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật.
Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là
một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu tố cơ
bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia
vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và
tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất và tác
dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối
tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... Đặc điểm chung của các TSCĐ
trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công
cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ
là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản
phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng thời kỳ
nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn của một
TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động được coi là TSCĐ
phải có đủ hai điều kiện sau:
- Có thời hạn sử dụng trên một năm.
- Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên.
Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là
công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ. Tuy nhiên do
yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư liệu lao động dù giá trị
và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh
nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn... Mặt khác, trong
doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển
cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ
vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí
cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò...
Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh
nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định
không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần
từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện
dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh
nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng trước xây dựng, mua sắm
TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có
những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng trong những lĩnh
vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ
để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo
những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu sau:
1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ có
hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình)
* TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này có thể là từng đơn
vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với
nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
* TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn
hiệu thương mại...
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu
hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều
chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế và cũng là căn cứ để đưa ra
các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao hợp lý.
1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
* TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
* TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là những
TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như các
công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng của
doanh nghiệp.
* Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ doanh
nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo
mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao
cho có hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể
chia thành các loại sau:
* Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau
quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, cầu cảng...
* Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị
chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ.
* Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như:
phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị
truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước...
* Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụ
đo lường, máy hút bụi...
* Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên
như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh...
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ, tính toán khấu hao TSCĐ
chính xác.
1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành
các loại:
* TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc
phòng của doanh nghiệp.
* TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh
doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được
dự trữ để sử dụng sau này.
* TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hoặc không
phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán
để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của doanh nghiệp
như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất
cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng TSCĐ.
1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu
Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ
chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài.
* TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ
nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các
quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu... Đây là những tài sản mà doanh
nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp.
* TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo
hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động. Trong đó TSCĐ
thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối
kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có
của doanh nghiệp. Còn đối với TSCĐ thuê hoạt động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng
trong thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình thành các loại
TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ chức hạch toán TSCĐ được
chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao.
Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm này sẽ chi
phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được bản chất vốn cố định và
những đặc điểm tuần hoàn của nó.
1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt các
TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để
mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả
bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình
và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có
hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm
hàng hoá hay dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn
cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình
độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song
ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Trên ý nghĩa của mối
liên hệ đó, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản
xuất kinh doanh như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này là do TSCĐ
được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà VCĐ - hình thái biểu hiện
bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu
thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá
trị hao mòn của TSCĐ.
- VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần
tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi TSCĐ
hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất
thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải
luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn
thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định đến trình độ sản xuất của doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng thực hiện được các mục tiêu của mình trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ trang bị kỹ thuật TSCĐ
của doanh nghiệp càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
càng cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là một yêu cầu cấp thiết đối với các
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi mới TSCĐ, quan trọng nhất là cần phải
nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử dụng tốt VCĐ thì mới có điều kiện để đổi mới
TSCĐ.
1.3. Khấu hao tài sản cố định.
1.3.1. Hao mòn tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau,
TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình.
a. Hao mòn hữu hình.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ trong
quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi
trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải
trọng, nhiệt độ, hoá chất ...; sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong
quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử
dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của
TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm
sản xuất.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố
trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy
phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và
môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của các hoá chất... Ngoài ra mức
độ hao mòn hữu hình còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng
nguyên vật liệu được sử dụng, công nghệ chế tạo...
Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình TSCĐ
sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
b. Hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản do có
những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải do chúng
được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều
kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện nay, người ta có thể sản xuất ra
được những loại máy móc có tính năng tác dụng như máy cũ nhưng với giá hạ hơn hoặc
sản xuất ra những loại máy có cùng giá trị nhưng công suất lớn hơn, chất lượng tốt hơn.
Do vậy, những máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị “mất giá” so với hiện
tại, sự “mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu
kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt làm cho những máy móc để chế tạo ra sản phẩm
đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng.
Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật,
công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học. Điều đó có ý nghĩa
rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
a. Khấu hao TSCĐ.
Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá