Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng nh hiện nay đề cho thấy làng xã Việt
Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng nh đời sống nhân dân ở nông thôn.
Qua thử thách của những biến động thăng trầm, những lệ làng phép nớc và phong tục tập
quán ở nông thôn vẫn đợc duy trì đến ngày nay.
Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời, nó thờng gắn liền với nông nghiệp và
sản xuất nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học, làng xã Việt Nam xuất hiện từ thời
các vua Hùng dựng nớc, những xóm làn định canh đã hình thành, dựa trên cơ sở những
công xã nông thôn. Mỗi công xã gốm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực
địa giới nhất định. Đồng thời là nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ớc sinh hoạt
cộng đồng, tâm thức tín ngỡng,lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhằm liên kết với nhau trong
quá trình sản xuất và đời sống.
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn ngời dân đều làm nông nghiệp,
càng về sau có những bộ phận dân c sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau,
khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành các
phờng hội: phờng gốm, phờng đúc đồng, phờng dệt vải từ đó, các nghề đợc lan truyền và
phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những ngời chuyên làm nghề thì đa phần vừa sản
xuất nông nghiệp, vừa làm nghề phụ. Nhng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các nghề mang
tính chuyên môn sâu hơn và thờng chỉ giới hạn trong quy mô nhỏ dần dần tách khỏi nông
nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Những làng nghề phát triển mạnh, số hộ, số
lao động làm nghề truyền thống tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Nh vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản
phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc . Quá trình phát triển của
làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát
triển đó từ một vài gia đình rồi đến cả họ và lan ra cả làng. Trải qua một quá trình lâu dài
của lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề đợc gìn giữ, có những nghề bị mai một hoặc
mất hẳn và có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ công nghệ
tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao.
88 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trờng Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập
khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trờng
Nhật Bản
Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ
ARTEXPORT sang thị trờng Nhật Bản
Chơng I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG
MỸ NGHỆ.
1 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ .
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng nh hiện nay đề cho thấy làng xã Việt
Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng nh đời sống nhân dân ở nông thôn.
Qua thử thách của những biến động thăng trầm, những lệ làng phép nớc và phong tục tập
quán ở nông thôn vẫn đợc duy trì đến ngày nay.
Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời, nó thờng gắn liền với nông nghiệp và
sản xuất nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học, làng xã Việt Nam xuất hiện từ thời
các vua Hùng dựng nớc, những xóm làn định canh đã hình thành, dựa trên cơ sở những
công xã nông thôn. Mỗi công xã gốm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực
địa giới nhất định. Đồng thời là nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ớc sinh hoạt
cộng đồng, tâm thức tín ngỡng,lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhằm liên kết với nhau trong
quá trình sản xuất và đời sống.
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn ngời dân đều làm nông nghiệp,
càng về sau có những bộ phận dân c sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau,
khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành các
phờng hội: phờng gốm, phờng đúc đồng, phờng dệt vải…từ đó, các nghề đợc lan truyền và
phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những ngời chuyên làm nghề thì đa phần vừa sản
xuất nông nghiệp, vừa làm nghề phụ. Nhng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các nghề mang
tính chuyên môn sâu hơn và thờng chỉ giới hạn trong quy mô nhỏ dần dần tách khỏi nông
nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Những làng nghề phát triển mạnh, số hộ, số
lao động làm nghề truyền thống tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Nh vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản
phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc . Quá trình phát triển của
làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát
triển đó từ một vài gia đình rồi đến cả họ và lan ra cả làng. Trải qua một quá trình lâu dài
của lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề đợc gìn giữ, có những nghề bị mai một hoặc
mất hẳn và có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ công nghệ
tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao.
Theo đó ta có thể đa ra một số khái niệm sau:
Làng nghề là một cụm dân c sinh sống trong một thôn( làng) có một hay một hay
một số nghề đợc tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập của
các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
Làng nghề truyền thống
Để làm rõ khái niệm về làng nghề truyền thống cần có những tiêu thức sau
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với
tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng
giá trỉan xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc dân
tộc Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Từ những tiêu thức trên có thể định nghĩa về làng nghề truyền thống nh sau: “Làng
nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống đợc
tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần
chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó đợc truyền từ đời náy sang đời khác, thờng
là qua nhiều thê hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở
thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định
và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng
hoá trên thị trờng.”
Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của nớc ta còn tồn tại cho đến ngày nay, bao gôm cả
ngành nghề mà phơng pháp sản xuất đợc cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại
để hỗ trợ cho sản xuất nhng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống.
Nh vậy từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu cụ thể về hàng thủ công mỹ nghệ nh
sau: sản phẩm thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo
của từng vùng, có giá trị chất lợng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ
thuật, mỹ thuật, thậm chí có thể trở thành di sản văn hoá của dân tộc, mang bản sắc văn
hoá của vùng lãnh thổ hay quốc gia sản xuất ra chúng.
Hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm các nhóm hàng sau:
1. Nhóm sản phẩm từ gỗ( gỗ mỹ nghệ)
2. Nhóm hàng mây tre đan
3. Nhóm sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ
4. Nhóm hàng thêu
1.2 Đặc điểm của hàng TCMN
1.2.1. Tính văn hoá
Khác với sản xuất công nghiệp, trong sản xuất tiểu thủ công , lao động chủ yếu dựa
vào đôi bàn tay khéo léo và đầu óc sáng tạo của ngời thợ, ngời nghệ nhân. Sản phẩm làm
ra bừa có giá trị sử dụng nhng lại vừa mang dấu ấn bàn tay tài hoa của ngời thợ và phong
vị độc đáo của một miền quê nào đó.Cũng chính vì vậy mà hàm lợng văn hoá ở các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ đợc đánh giá cao hơn nhiều so với hang công nghiệp sản xuất
hàng loạt. Ngay từ khi phát hiện ra các sản phẩm trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc
Lũ, thế giới đã biết đến một nền văn hoá Việt Nam qua những sản phẩm phản ánh sinh
động và sâu sắc nền văn hoá, t tởng và xã hội thời đại Hùng Vơng. Cho đến nay, những
sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính văn hoá nh gốm Bát Tràng, hay bộ chén đĩa,
tố sứ cao cấp có hình hoa văn Châu á, mang đâm nét văn hoá Việt Nam nh chim lạc, thần
kim quy, hoa sen…đã đợc xuất khẩu rộng rãi ra khắp thế giới, ngời ta đã có thể tìm hiểu
phần nào văn hoá của Việt Nam .
Có thể nói đặc tính này là điềm thu hút mạnh mẽ đối với khách hàng nhất là khách
quốc tế, nó tạo nên một u thế tuyệt đối cho hàng thủ công mỹ nghệ và đợc coi nh món quà
lu niệm đặc biệt trong mỗi chuyến du lịch của du khách nớc ngoài. Khách du lịch khi đến
thăm Việt Nam không thể không mang theo về nớc một món đồ thủ công mỹ nghệ , cho
dù ở nớc họ có thể sản xuất ra nhng sẽ không thể mang hồn bản sắc văn hoá của Việt Nam .
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là hàng hoá đơn thuần mà trở thành sản phẩm văn
hoá có tính nghệ thuật cao và đợc coi là biểu tợng của nghề truyền thống của dân tộc Việt
Nam .
1.2.2 Tính mỹ thuật
Sản phẩm mang tính mỹ thuật cao, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ là một tác
phẩm nghệ thuật, vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ. Nhiều loịa sản phẩm vừa
là phục vụ tiêu dùng , vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa nơi công sở…các sản phẩm
đều là sự kết giao giữa phơng pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Khác với
các sản phẩm công nghiệp đợc sản xuất hàng loạt bằng máy móc, hàng thủ công mỹ nghệ
có giá trị cao ở phơng diện nghệ thuật sáng tạo thì chỉ đợc sản xuất bằng công nghệ mang
tính thủ công, chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo của ngời thợ. Chính đặc điểm này đã
đem lại sự quý hiếm cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Nhờ đó, tai các hội chợ quốc tế
nh EXPO, hội chợ ở NEW YORK , Milan( ý) …hang thủ công mỹ nghệ đã gây đợc sự
chú ý của khách háng nớc ngoài bởi sự tinh xảo trong các đờng nét hoa văn trạm trổ trên
các sản phẩm , hay những kiể u dáng mẫu mã độc đáo, mặc dù nguyên liệu rất đơn giản có
khi chỉ là một hòn đá, xơ dừa…qua bàn tay tài hoa của các nghệ nhân đã trở thành các tác
phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
1.2.3 Tính đơn chiếc
Hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đều mang tính cá biệt và có sắc thái riêng của
mỗi làng nghề. Cùng là đồ gốm sứ, nhng ngời ta vẫn có thể phân biệt đợc đâu là gốm Bát
Tràng, Thồ hà, Hơng Canh…nhờ các hoa văn, màu men, hoạ tiết trên đó. Bên cạnh đó,
tính đơn chiếc có đợc là do hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam mang hồn của dân tộc Việt
Nam , mang nét văn hoá và bản sắc của dân tộc Việt Nam , chính vì vậy hàng của Trung
Quốc hay Nhật bản cho dù có phong phú hay đa dạng đến đâu cũng không thể có đợc
những nét đặc trng đó,cho dù kiểu dáng có thể giống nhng không thể mang “hồn” của dân
tộc Việt Nam . Cùng với đặc trng về văn hoá, tính riêng biệt đã mang lại u thế tuyệt đối
cho hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong xuất khẩu . Đối với Việt Nam và cả khách
hàng nớc ngoài, nó không những có giá trị sử dụng mà còn thúc đẩy quá trình giao lu văn
hoá giữa các dân tộc.
1.2.4 Tính đa dạng
Tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ thể hiện ở phơng thức , nguyên liệu
làm nên sản phẩm đó và chính nét văn hoá trong sản phẩm. Nguyên liệu làm nên sản phẩm
có thể là gạch, đất, cói , dây chuối, xơ dừa…mỗi loại sẽ tạo nên một sản phẩm thủ công
mỹ nghệ với những sắc thái khác nhau, cho ngời sử dụng có những cảm nhận khác nhau
về sản phẩm. Là một đôi dép đi trong nhà, nhng dép làm bằng cói đã quá cũ đối với ngời
tiêu dùng nên hiện nay, các nghệ nhân sử dụng chất liệu dây chuối, tạo cảm giác rất mới lạ,
vừa có màu vàng ngà của chuối vừa có mầu mốc tự nhiên của thân chuối…Bên cạnh đó,
tính đa dạng còn đợc thể hiện qua những nét văn hoá trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ bởi
vì mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đêù mang những nét văn hoá đặc trng của từng vùng,
từng thời đại sản xuất ra chúng. Chính vì vậy trên thị trờng có rất nhiều loại sản phẩm thủ
công mỹ nghệ, mỗi loại đều có sự khác biệt rõ rệt, không đồng nhất. Cũng là đồ gốm sứ
nhng ngời ta vẫn có thể thấy đâu là gốm Việt Nam , gốm Nhật Bản , gốm Trung quốc…
1.2.5 Tính thủ công
Có thể cảm nhận ngay tính thủ công qua tên gọi của sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Tính chất thủ công thể hiện ở công nghệ sản xuất, các sản phẩm đều là sự kết giao giữa
phơng pháp thủ công tinh xảo và sáng tạo nghệ thuật. Chính đặc tính này tạo nên sự khác
biệt giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và những sản phẩm công nghiệp hiện đại đợc sản
xuất hàng loạt và ngày nay,cho dù không sánh kịp tính ích dụng của các sản phẩm này
nhng sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn gây đợc sự yêu thích của ngời tiêu dùng.
1.3 Xuất khẩu thủ công mỹ nghệ và vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ
1.3.1 Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác hàng hoá khác ở chỗ nó vừa có thể sử dụng vừa
có thể là vật trang trí, làm đẹp cho nhà cửa, văn phòng hay cũng có thể là đồ lu niệm hấp
dẫn trong mỗi chuyến du lịch của khách quốc tế. Chính vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ có
thể đợc xuất khẩu ra nớc ngoài theo 2 phơng thức sau:
- Xuất khẩu tại chỗ: khi khách du lịch đến từ nớc ngoài vào Việt Nam và mua hàng
thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Việt Nam. Với xu hớng phát triển của du lịch nh hiện nay,
hình thức xuất khẩu này sẽ góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam hàng năm.
- Xuất khẩu ra nớc ngoài: là hình thức các doanh nghiệp bán hàng thủ công mỹ nghệ
cho các đối tác nớc ngoài bằng cách mang hàng sang tận nơi băng các phơng tiện vận tải
khác nhau và phải chịu sự ràng buộc của một số thủ tục xuất khẩu nhất định.
1.3.2 Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
1.3.2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nớc.
Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nớc ta trong mấy năm gần đây đã mang
lại cho nớc ta nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Cụ thể trong năm 2003 Việt Nam đã xuất khẩu đợc gần 400 triệu USD, và tính
đến tháng 4 năm nay, kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt trên 100 triệu USD, tăng
10% so với năm ngoái. Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn thực thu về cho đất nớc từ nguồn
nguyên liệu rẻ tiền có sẵn trong tự nhiên và từ lực lợng lao động nhàn rỗi ở các vùng nông
thôn nớc ta.
Nhờ có nguồn vốn đó, các làng nghề truyền thống Việt Nam có điều kiện đầu t xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đào tạo nguồn
nhân lực có tay nghề và kỹ thuật cao cho ngành thủ công mỹ nghệ.
* Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hớng hiện đại hoá
Chuyển dịch cơ cấu nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên một bớc về
chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất , cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm , cơ cấu giá trị sản
lợng và cơ cấu thu nhập cua ra dân c nông thôn bằng các nguồn lợi thu đợc từ các lĩnh vực
trong nông nghiệp và phi nông nghiệp. Với mục tiêu nh vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn ngày càng đợc thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành công
nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc phát triển
các làng nghề truyền thống dẫ có vai trò tích cực trong việc góp phần tăng tỉ trọng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông nghiệp, chuyển từ lao
động sản xuất nông nghiệp thu nhập thấp sang ngành nghề nông nghiệp có thu nhập cao
hơn. Ngay từ đầu khi nghề thủ công xuất hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành
nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh còn có các ngành thủ công nghiệp, thơng mại và dịch
vụ cùng tồn tại phát triển.
Mặt khác có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập va giá trị sản
lợng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bớc tiếp cận với nền kinh tế thị
trờng, năng lực thị trờng đợc nâng lên ngời lao động nhanh chóng chuyển sang đầu t cho
các ngành nghề phi nông nghiệp, dặc biệt là những sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở
thị trờng trong nớc và ngoài nớc. Khi đó khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp , khu
vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đợc tăng lên.
Làng nghề truyền thống phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn
mở rộng địa bàn hoạt động thu hút nhiều lao động. Khác với sản xuất nông nghiệp, sản
xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự cung cấp thờng xuyên trong
việc cung ứng vật liệu và tiêu thụ sản phẩm . Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh
mẽ với nhiều hình thức đa dạng và phong phú , đem lại thu nhập cao cho ngời lao động.
Nh vậy, sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện
đại hoá. Sự phát triển lan toả của làng nghề truyền thống đã mở rộng quy mô và địa bàn
sản xúât, thu hút rất nhiều lao động. Cho đếnnay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60-
80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.
* Tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt.
Trớc hết thông qua mặt sản xuất hàng xuất khẩu với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút
hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp tăng gía trị lao động tăng thu
nhập quốc dân. Bên cạnh đó, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn tạo nguồn để nhập nguồn
vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một
phong phú của nhân dân và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngời lao động .
- Tạo việc làm cho ngời lao động.
Trên phơng diện xã hội đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đã kích thích việc
phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay trong các làng nghề truyền thống bình
quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động thờng xuyên và 8
đến 10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên nghề tạo việc làm cho 4 đến 6 lao động thờng
xuyên và 2 đến 5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ sở
có thể thu hút 200 đến 250 lao động.
Nhiều làng nghề không những thu hút lực lợng lao động lớn ở địa phơng mà còn tạo
việc làm cho nhiều lao động ở các địa phơng khác. Làng gốm bát tràng ngoài việc giải
quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã, còn giải quyết thêm việc làm cho khoảng
5500 đến 6000 lao động của các khu vực lân cận đến làm thuê.
Mặt khác, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã kéo theo sự phát triển và
hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm
nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Ngoài các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất
trực tiếp còn có các dịch vụ khác nh dịch vụ tín dụng ngân hàng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn đã tính toán cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ
công mỹ nghệ thì tạo đợc việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 đến 4000 lao động chủ
yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn, trong đó có lao đông nông nhàn tại chỗ và các
vùng lân cận( trong khi đó chế biến hạt điều thì 1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu chỉ thu
hút đợc 400 lao động).
- Nâng cao và cải thiện đới sống nhân dân.
Ngoài việc đợc coi là động lực gián tiếp giải quyết việc làm cho ngời lao động xuất
khẩu thủ công mỹ nghệ còn góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho ngời lao
động ở nông thôn. ở nơi nào có ngành nghề phát triển thì nơi đó thu nhập cao và mức sống
cao hơn các vùng thuần nông. Nếu so sánh với mức thu nhập lao động nông nghiệp thì thu
nhập của lao động ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí lao
động và diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Bình quân thu
nhập của 1 lao động trong hộ chuyên ngành nghề phi nông nghiệp là 430000- 450000
đồng / tháng, ở hộ kiêm nghề từ 190000- 240000 đồng/ tháng, trong khi đó ở hộ lao động
thuần nông chỉ có khoảng 70000-100000 đồng/ ngời/ tháng. Có những làng nghề có thu
nhập cao nh làng gốm Bát Tràng : Mức bình quân thu nhập của các hộ thấp cũng đạt từ
10-20 triệu/năm. Thu nhập từ nghề gốm sứ Bát Tràng chiếm tới 86% tổng thu nhập của
toàn xã. Vì vậy thu nhập của các làng nghề truyền thống đã tạo ra sự thay đổi khá lớn
trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và của địa phơng.
Sự phát triển ổn định của làng nghề tạo ra nguồn hàng ổn định đối với các doanh
nghiệp kinh doanh mặt hàng này . từ đó tạo ra sự thuận lợi trong kinh doanh, mang lại lợi
nhuận cao cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao thu nhập và mức sống cho ngời lao động.
Ngoài ra việc khôi phục và sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn kéo theo
nhiều ngành khác phát triển nhất là ngành du lịch và các ngành dịch vụ có liên quan. Sản
xuất thủ công mỹ nghệ và du lịch là 2 nhân tố có tác động 2 chiều . Các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ luôn là một nét hấp dẫn rất quan trọng và ấn tợng đối với khách du lịch
nhất khách du lịch văn hoá ,các sản phẩm càng đa dạng phong phú càng có tác dụng thu
hút mạnh mẽ du khach tới tham quan, qua đó các dịch vụ về du lịch phát triển đồng thời
hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng đợc các nớc bạn biết đến nhiều hơn, đây chính
là một biểu hiện của hình thức xuất khẩu tại chỗ. Ngợc lại, nếu du lịch phát triển, có nhiều
khách du lịch đến tham quan tại các làng nghề c sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ đợc biết
đến nhiều hơn, đợc quảng bá nhiều hơn, đó cũng là một hình thức khuyêch trơng giới thiệu
sản phẩm của Việt Nam ra nớc ngoài, từ đó ta có thể mở rộng quan hệ kinh doanh và có
thể tăng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
* Xuất khẩu TCMN là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại
của nớc ta.
Đẩy mạnh xuấu khẩu nói chung và thủ công mỹ nghệ nói riêng có vai trò tăng cờng
sự hợp tác quốc tế với các nớc, nâng cao địa vị và vai trò của nớc ta trên thị trờng quốc
tế…Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy
quỹ tín dụng đầu t, mở rộng vận tải quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối
ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đóng vai trò xúc tác hỗ trợ
phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu nh là yếu tố bên trong trực tiếp
tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế nh: vốn , kỹ thuật, lao
động, thị trờng tiêu thụ…Đối với nớc ta, hớng mạnh về xuất khẩu hàng là một trong
những