Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là một tất yếu
không thể tránh và không nên tránh của bất kì quốc gia nào, dù quốc gia đó đi theo
con đường TBCN hay XHCN. Điều cốt yếu ở đây là phải vận dụng kinh tế thị
trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa những điểm bất cập mà kinh tế
th ị trường mang lại, có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Cùng với quá trình
phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, Thương mại quốc tế đã và đang góp
phần tích cực cho sự ơphát triển phồn thịnh của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với Việt
Nam. Muốn đạt được mục tiêu mà đảng và Nhà nước đề ra là đưa nước ta trở thành
một nước công nông nghiệp phát triển vào năm 2020, toàn dân, toàn xã hội và trước
hết là các doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh phải luôn hoàn thiện
mình, không ngừng vươn lên để thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên, nước ta vẫn còn đang bươc knhững bước đầu tiên của quá trình
đổi mới nền kinh tế, do vậy, những vấp ngã cũng như sự thiếu vững vàng là không
thể tránh khỏi. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn mang nặng
dáng dấp của cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung trì tr ệ, bảo thủ, công tác
quản lí doanh nghiệp còn yếu kém. Hơn nữa, khi Nhà nước còn đang thực hiện cơ
chế chuyển đổi nền kinh tế sang cổ phần hoá và tư nhân hoá thì cơ hội cũng nhiều
lên và khó khăn cũng càng thêm chồng chất.
Nhưng điều đáng mừng là chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy những mảng sáng
của một nền kinh tế mới. Các doanh nghiệp quốc doanh đã dần nhận ra được những
mặt yếu kém của mình và đang nỗ lực khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lí, nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao
công nghệ Việt Nam - VINAGIMEX - là một trong những công ty đi tiên phong
trong vấn đề này. VINAGIMEX hoạt động rất mạnh trong lĩnh vực nhập khẩu, do
đó, việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động này là rất cần thiết.
86 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4133 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty VINAGIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả nhập khẩu tại Công ty
VINAGIMEX
Lời mở đầu
Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là một tất yếu
không thể tránh và không nên tránh của bất kì quốc gia nào, dù quốc gia đó đi theo
con đường TBCN hay XHCN. Điều cốt yếu ở đây là phải vận dụng kinh tế thị
trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa những điểm bất cập mà kinh tế
thị trường mang lại, có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Cùng với quá trình
phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, Thương mại quốc tế đã và đang góp
phần tích cực cho sự ơphát triển phồn thịnh của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với Việt
Nam. Muốn đạt được mục tiêu mà đảng và Nhà nước đề ra là đưa nước ta trở thành
một nước công nông nghiệp phát triển vào năm 2020, toàn dân, toàn xã hội và trước
hết là các doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh phải luôn hoàn thiện
mình, không ngừng vươn lên để thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên, nước ta vẫn còn đang bươc knhững bước đầu tiên của quá trình
đổi mới nền kinh tế, do vậy, những vấp ngã cũng như sự thiếu vững vàng là không
thể tránh khỏi. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn mang nặng
dáng dấp của cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung trì trệ, bảo thủ, công tác
quản lí doanh nghiệp còn yếu kém. Hơn nữa, khi Nhà nước còn đang thực hiện cơ
chế chuyển đổi nền kinh tế sang cổ phần hoá và tư nhân hoá thì cơ hội cũng nhiều
lên và khó khăn cũng càng thêm chồng chất.
Nhưng điều đáng mừng là chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy những mảng sáng
của một nền kinh tế mới. Các doanh nghiệp quốc doanh đã dần nhận ra được những
mặt yếu kém của mình và đang nỗ lực khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lí, nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao
công nghệ Việt Nam - VINAGIMEX - là một trong những công ty đi tiên phong
trong vấn đề này. VINAGIMEX hoạt động rất mạnh trong lĩnh vực nhập khẩu, do
đó, việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động này là rất cần thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác nhập khẩu trong quan hệ
thương mại quốc tế, với kiến thức sau bốn năm học tập tại trường và thời gian thực
tập tại công ty VINAGIMEX được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Thương
mại và các cán bộ trong công ty, em đã cảm thấy đủ tự tin để nghiên cứu (mot so
bien phap nang cao hieu qua hoat dong kinh doanh nhap khau tai cong ty
vinagimex). Để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình với các vấn đề nghiên cứu
như sau:
1. Về mặt lí thuyết, hoạt động nhập khẩu bao gồm những nội dung gì ?
2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty VINAGIMEX có điểm gì nổi
bật ? Những điểm mạnh và yếu trong hoạt động nhập khẩu của công ty?
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu để
thực hiện mục tiêu phương hướng phát triển công ty.
Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tế còn chưa vững và hạn chế,
bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo, các cán
bộ nhân viên của VINAGIMEX giúp đỡ để em hoàn thiện đề tài.
Chương I.
Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
I. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế và vấn đề kinh doanh xuất
nhập khẩu.
1. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế.
1.1. Khái niệm.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua
buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các
mối quan hệ kinh tế xã hội va phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giưã những người sản
xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh
vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động
quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, Thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn
bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế.
Vì vậy phải coi trọng Thương mại quốc tế như là một tiền đề một nhân tố phát triển
kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và
chuyên môn hoá quốc tế.
Bí quyết thành công trong chiến lựoc phát triển kinh tế của nhiều nước là mở
rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có
hàm lượng kĩ thuật cao.
Thương mại quốc tế một mặt, phải khai thác được mọi lợi thế của đất nước
phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính đến lợi
thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tín toán cái có
thể thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân công lao
động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy, để phát triển Thương mại quốc tế có
hiệu quả lâu dài cần phải tăng cưòng khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
Quan hệ kinh tế trong một nước là những mối quan hệ giữa những ngưòi
tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và
chuyên môn hoá trong nước. Quan hệ Thương mại quốc tế thể hiện sự phân công
lao động và chuyên môn hoá quốc tế ở trình độ kĩ thuật cao và qui mô lớn. Nó được
phát triển trong một môi trường khác hoàn toàn các quan hệ kinh tế trong nước về
phương cách giao dịch buôn bán, về luật pháp, về nghiệp vụ…
Thị trường thế giới và thị trường dân tộc là những phạm trù kinh tế khác
nhau. Vì vậy các quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể trong kinh doanh Thương
mại quốc tế mang tính chất kinh tế xã hội hết sức phức tạp, không thể cho phép nghĩ
rằng cứ buôn bán trong nước được có nghĩa là buôn bán với nước ngoài cũng thành
công.
1.2. Nguồn gốc và lợi ích của Thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua
mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những ngưòi sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại
thuơng mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Thương mại quốc tế
cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có
thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng của sản xuất trong nước khi thực hiện chế
độ tự cung tự cấp, không buôn bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa
học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để
thoả mãn nhu cầu con người này càng một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nứoc ngày càng tăng.
Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá tăng nhanh đã đặt ra câu hỏi lí do để
buôn bán là gì ?
Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản
xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu
các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn
đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình
thành nên Thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như
dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch… Song như chúng ta đã biết, phần lớn số lượng
Thương mại thuộc các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của
sản xuất. Mỹ sản xuất được ôtô tại sao lại phải nhập khẩu ôtô từ Nhật Bản? Làm sao
nước ta với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt
hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì thương mại với các nước đó.
Nhà kinh tế học David Ricardo đã trả lời những câu hỏi này. Năm 1817 ông
đã chứng minh được rằng chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và gọi
kết quả đó là Qui luật lợi thế tương đối (hay Lí thuyết về lợi thế so sánh).
Qui luật này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất các mặt
hàng mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương
mại có lợi cho cả hai nước.
Chúng ta bắt đầu với việc chỉ ra những lợi ích của Thương mại quốc tế do sự
chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ hội. Theo đó Chi phí cơ hội của một mặt
hàng là số lượng những mặt hàng khác người ta phải từ bỏ để sản xuất hoặc kinh
doanh thêm một đơn vị mặt hàng đó.
Giả sử một nền kinh tế khép kín có những nguồn lực nhất định có thể làm ra
máy video và áo sơmi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video thì
càng có ít nguồn lực làm ra áo sơmi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơmi
bị hi sinh do dùng vào các nguồn lực vào việc làm ra các máy Vvideo.
Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác
nhau. Sự chênh lệch giưã các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định
phương thức thương mại quốc tế. Phương thức đó được minh hoạ bằng qui luật lợi
thế tưong đối.
Qui luật lợi thế tương đối nói rằng, các nước hay cá nhân nếu chuyên môn
hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương
đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn.
Qui luật này có thể được giải thích bằng ví dụ sau:
M
ỹ
An
h
- Yêu cầu lao động
cho một đơn vị sản phẩm
(Giờ/đơn vị sản phẩm)
+ Máy Video
+ áo Sơmi
- Tiền lương theo giờ
chi phí lao động cho một
đơn vị sản phẩm
+ Máy Video
+ áo Sơmi
30
5
6
USD
18
0USD
30
60
6
2
bảng
12
0 bảng
12
USD bảng
Giả thiết rằng các công nhân Mỹ kiếm được 6USD một giờ và các công nhân
Anh là 2 bảng một giờ. Hai dòng cuối của bảng trên cho thấy chi phí lao động cho
một đơn vị của hai loại hàng ở mỗi nước. Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi
nước sẽ sản xuất cả hai loại hàng và các chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm
này là giá trị nội địa của mỗi sản phẩm bán ra.
Chú ý rằng đối với cả hai sản phẩm, yêu cầu lao động cho một đơn vị sản
phẩm ở Mỹ là thấp hơn một cách tuyệt đối so với yêu cầu này ở Anh. Nhưng lao
động ở Mỹ hiệu quả hơn một cách tương đối về máy video so với áo sơmi. Còn số
giờ lao động nhiều gấp đôi ở Anh so với Mỹ để sản xuất ra một máy video, nhưng
chỉ cần 6/5 số giờ lao động nhiều hơn để sản xuất ra một áo sơmi. Và chính những
chênh lệch tương đối về năng suất này là cơ sở cho thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề cập đến mô
hình đơn giản giữa hai nước, hai hàng hoá và một nguồn lực đầu vào là lao động. Vì
thế mô hình của David Ricardo chưa giải thích được một cách rõ ràng nguồn gốc
của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ
Điển đã bổ sung bằng một mô hình mới, trong đó hai ông đề cập đến hai yếu tố đầu
vào là lao động và vốn với những giả thiết của mô hình như sau: Có hai quốc gia
cùng sản xuất hai loại hàng hoá Xvà Y bằng hai yếu tố sản xuất là Lao động và Vốn
với cùng một kĩ thuật công nghệ như nhau. Hàng hoá X là loại hàng hoá sử dụng
nhiều lao động và hàng hoá Y là hàng hoá sử dụng nhiều vốn và ở cả hai quốc gia,
không có sự chuyên môn hoá trong sản xuất. Đồng thời thị trường hàng hoá và thị
trường các yếu tố sản xuất là các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, có sự dịch chuyển
linh hoạt của các yếu tố sản xuất trong phạm vi của một quốc gia nhưng không có
sự dịch chuyển trong phạm vi quốc tế. Trong mô hình hai ông cũng không xét đến
các chi phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc những trở ngại khác cho hoạt động thương
mại quốc tế tự do và giả định rằng tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai quốc
gia.
Với những giả định như trên mô hình của Hécher- Ohlin phát biểu: Một nước
xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và
tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó
cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Một cách vắn tắt, một nước
tương đối giàu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập
khẩu các hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Theo các giả thiết đã trình bày ở trên, quốc gia thứ nhất sẽ xuất khẩu hàng
hoá X, vì sản xuất hàng hoá X sử dụng nhiều lao động, mà lao động lại là yếu tố
tương đối rẻ và phong phú ở quốc gia thứ nhất. Đồng thời quốc gia thứ hai sẽ xuất
khẩu hàng hoá Y vì sản xuất hàng hoá Y sử dụng nhiều yếu tố vốn là yếu tố tương
đối sẵn có ở nước thứ hai.
Về bản chất học thuyết của Hecsher- Ohlin căn cứ vào sự khác biệt về tính
phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến sự
khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có thương
mại để giải thích nguồn gốc của thương mại quốc tế. Sự khác biệt về giá cả tưong
đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của hàng hoá sau đó sẽ được chuyển
thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về giá cả tuyệt đối
của hàng hoá giữa hàng hoá của hai nước là nguyên nhân trực tiếp của Thương mại
quốc tế.
2. Một số vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán
phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng
cao mức sống của nhân dân, xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại
hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống
kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ
dàng khống chế đuợc.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ
mang lại nhiều lợi ích, song cũng có một số điểm bất lợi. Muốn có hiệu quả cao
phải phát triển những thuận lợi và hạn chế tác hại.
Những thuận lợi của xuất nhập khẩu đem lại có thể thấy rõ ràng. Bên cạnh
đó, xuất nhập khẩu còn có nhiều hạn chế:
- Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng xuất nhập khẩu.
Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ và kịp thời sẽ gây các
thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội: buôn
lậu, trốn thuế, ép giá… dễ phát triển.
- Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các
biện pháp không lành mạnh như phá hoại cản trở công việc của nhau. Việc quản lí
không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá
và đaọ đức xã hội.
Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển
sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp
hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn
khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỉ trọng lớn, đồng tiền thanh toán
bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia
khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương
nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức
thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở
hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải
được nghiên cứu đầy đủ, kĩ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ
nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời
cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trước khi bước vào nghiên
cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng
hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước,
giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên
trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất nhập khẩu để nắm bắt được những cơ hội
trong kinh doanh Thương mại quốc tế.
II. Nhập khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế.
1. Tính tất yếu khách quan của hoạt động nhập khẩu.
Lịch sử đã chứng minh không một quốc gia nào có thể phát triển một cách
đơn độc mà phải hoà mình vào nền kinh tế chung- nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là
sự tham gia vào thương mại quốc tế mà xuất khẩu và nhập khẩu là mặt rất quan
trọng. Thương mại quốc tế đã tồn tại đâu đó, ẩn dưói hình thức này hay hình thức
khác kể từ những giai đoạn đầu loài người hình thành và phát triển ngày càng hoàn
thiện cùng vời sự phát triển của nhân loại, của thế giới và đến thời đại bây giờ, đến
những năm đầu của thiên niên kỉ thứ III, thương mại quốc tế hơn bao giờ hết đã
khẳng định vai trò của mình.
Thương mại quốc tế làm cho các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn
về mọi mặt, làm cho con người ngày càng thoả mãn tốt hơn các nhu cầu vật chất và
tinh thần của mình. đó là lí do giải thích tại sao từ nhiều thiên niên kỉ trước các đội
thuyền buôn của vương quốc Anh, Tây ban nha, Bồ đào nha… buôn bán khắp năm
châu bốn bể để mua các sản vật quí như: Gấm vóc, lụa là, trầm hương, đồi mồi… và
xuất đi các vật phẩm tiêu dùng như: Gương lược, công cụ sản xuất… Trong hoạt
động này thì cả hai bên mua và bán đều có lợi, đều thoả mãn được nhu cầu tiêu
dùng của mình tốt hơn. Và điều này lại một lần nữa khẳng định sự phụ thuộc lẫn
nhau của các quốc gia trên thế giới.
Hơn nữa, bất kì một quốc gia nào cũng không chỉ xuất khẩu hoặc nhập khẩu
mà phải tiến hành song song. Vì vậy, vị thế của nhập khẩu là không thể chối cãi.
Tuy nhiên, vị thế của nó ra sao thì lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế cũng như
đường lối, chính sách, pháp luật của từng nước.
2. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế.
Nằm trong qui luật tất yếu khách quan của Thương mại quốc tế, bản thân
nhập khẩu đã có vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nhập
khẩu đảm bảo cung cấp và thoả mãn tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế trong nước.
Ngoài ra nhập khẩu còn trực tiếp hay gián tiếp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thông
qua việc thiết lập các mối quan hệ bạn hàng hay hiện đại hoá các ngành nghề, trang
thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển thì vai trò của hoạt động nhập khẩu là hết
sức quan trọng. Nhập khẩu là tác nhân thúc đẩy quá trình tăng trưởng phát triển
kinh tế. Đặc biệt là việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các
nước này, do điều kiện khách quan lịch sử để lại, hầu hết các quốc gia đều có trình
độ phát triển tương đối thấp, có sở hạ tầng, trình độ lao động chưa phát triển. Do
vậy, trong điều kiện hiện nay để phát triển kinh tế, tất cả các nước đang phát triển
đều phải đầu tư trang thiết bị, hiện đại hoá sản xuất. Thông qua nhập khẩu bao gồm
cả nhập khẩu máy móc, thiết bị là con đường duy nhất để các nước này đạt được
điều đó. Qua hoạt động nhập khẩu, năng lực sản xuất của quốc gia được tăng cường
và mở rộng, tận dụng được nguồn nhân công dồi dào. Hơn nữa hoạt động nhập
khẩu tuân theo qui luật chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Các nước NICs tiếp nhận công
nghệ sản xuất đồ điện tử từ Mỹ, Nhật vào những năm 1980- 1990, công nghệ may
mặc, giày da chuyển từ NICs sang Việt Nam, Mãlai, Thái lan… ngoài ra sự thất bại
của chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs thời kì đầu công nghiệp hoá đã
chỉ ra rằng, để khai thác các lợi thế thì trong chừng mực nào đó lại phụ thuộc vào
nhập khẩu.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển lại trong thời kì công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, do vậy hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong vòng hơn mười năm qua (1991- 2002) kinh tế Việt Nam luôn duy trì ở mức
tăng trưởng cao, sản xuất công nghiệp luôn tăng trưởng ở mức 15% dến 17%/năm.
Bên cạnh đó Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nên nhu cầu phân bón, máy
móc nông nghiệp khá cao. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn
trong kim ngạch nhập khẩu của nước ta. Như vậy hoạt động nhập khẩu của nước ta
trong vòng hơn mười năm qua đã hoàn thành tốt vai trò của mình.
Xét cho cùng, mặc dù luôn hướng tới mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu song
cũng phải khẳng định vai trò của hoạt động nhậ