Trong bối cảnh đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế nước ta đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn. Điều đó tạo điều kiện
cho các Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò “trung gian tài ch ính” của mình.
Tuy nhiên trong một vài năm gần đây các hoạt động của ngân hàng có xu hướng
chững lại và xuất hiện tình trạng ứ đọng vốn trong khi các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế lại đang nằm trong tình trạng thiếu vốn để tổ chức sản xuất và thực
hiện các dự án.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều nhưng một trong những
nguy ên nhân chủ yếu đó là chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu
tư tại các ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức, hoạt động cho vay
còn nặng về trường hợp “ bảo đảm vốn vay bằng tài sản thế chấp”
Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch NHNoVN em nhận thấy đây cũng
là một trong những mối quan tâm của Sở Giao Dịch đã và đang được xem xét,
nghiên cứu để tìm ra các giải ph áp để khắc phục tình trạng trên. Xuất phát từ tình
hình thực tế của Sở Giao Dịch em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài
chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN”
Đề tài đi tìm hiểu từ lí luận đến thực trạng của Sở Giao Dịch và cuối cùng
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình thẩm định, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay trung dài h ạn nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Sở Giao Dịch nói chung.
106 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thẩm định tài chính trong cho vay
trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Trang 2
]’
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế nước ta đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn. Điều đó tạo điều kiện
cho các Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò “trung gian tài chính” của mình.
Tuy nhiên trong một vài năm gần đây các hoạt động của ngân hàng có xu hướng
chững lại và xuất hiện tình trạng ứ đọng vốn trong khi các doanh nghiệp, các thành
phần kinh tế lại đang nằm trong tình trạng thiếu vốn để tổ chức sản xuất và thực
hiện các dự án.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều nhưng một trong những
nguyên nhân chủ yếu đó là chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu
tư tại các ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức, hoạt động cho vay
còn nặng về trường hợp “ bảo đảm vốn vay bằng tài sản thế chấp”
Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch NHNoVN em nhận thấy đây cũng
là một trong những mối quan tâm của Sở Giao Dịch đã và đang được xem xét,
nghiên cứu để tìm ra các giải pháp để khắc phục tình trạng trên. Xuất phát từ tình
hình thực tế của Sở Giao Dịch em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài
chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN”
Đề tài đi tìm hiểu từ lí luận đến thực trạng của Sở Giao Dịch và cuối cùng
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình thẩm định, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay trung dài hạn nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Sở Giao Dịch nói chung.
Kết cấu của đề tài:
Phần I: Những vấn đề chung về thẩm định tài chính của NHTM
Phần II: thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn
tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Trang 3
Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính
trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Do thời gian thực tế còn hạn chế và kiến thức hạn hẹp nên nội dung đề tài
khó tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để
cho đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em chân thành cảm ơn thầy giáo Đàm Văn Huệ đã hướng dẫn em trong quá
trình thực tập và hoàn thành đề tài.
Hà nội tháng 3/2002
Sinh viên
Nguyễn Hoàng Hà.
Trang 4
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA NHTM
I. ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
Trong hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng ở nước ta hiện nay cũng như
trong hoạt động Ngân hàng thường xuất hiện các cụm từ “ dự án đầu tư”, “hoạt
động đầu tư”... để đi sâu vào lĩnh vực này ta cần hiểu ý nghĩa của thuật ngữ.
1. Hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư hay ngắn gọn là đầu tư hiểu theo nghĩa rộng nhất là quá
trình sử dụng các nguồn lực để đạt được những mục tiêu nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động đầu tư được hiểu một cách ngắn gọn là
hoạt động bỏ vốn nhằm thu lợi trong tương lại. “Vốn” ở đây được hiểu là toàn bộ
vốn bằng tiền mặt, giá trị thiết bị, nhà xưởng, tài nguyên, đất đai... và “lợi” được
hiểu là lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác.
2. Dự án đầu tư.
Theo nghĩa rộng dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với
những mục tiêu, phương pháp và phương tiện để đạt được trạng thái mong muốn.
Về nội dung, dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn
lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian
và địa điển xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định
nhằm thực hiện mục tiêu lợi nhuận hoặc những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thì : Dự án đầu tư là một
tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải taọ những đối
tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao
chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
Như vậy, dự án đầu tư không phải là một ý định hay phác thảo mà có tính
cụ thể và mục tiêu xác định nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định. Nó còn là
Trang 5
phương tiện thuyết phục chủ yếu để tìm kiếm sự tài trợ từ các tổ chức tài chính,
chính phủ...
3. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư:
Để hiểu rõ hơn về hoạt động đầu tư thì việc phân tích các đặc trưng cơ bản
của hoạt động đầu tư là cần thiết, nhìn chung hoạt động đầu tư có một số đặc trưng
cơ bản sau:
3.1. Là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định đầu tư thường và trước hết là
Quyết định tài chính.
Vốn được hiểu là các nguồn lực sinh lời, vốn được thể hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau nhưng có thể sử dụng một thước đo chung đó là gía trị (được thể
hiện qua đơn vị tiền tệ). Vì hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định
đầu tư thường xuyên được xem xét từ phương diện tài chính (phải bỏ bao nhiêu
vốn, lời lãi bao nhiêu...). Trên thực tế hoạt động đầu tư, các Quyết định chi tiêu,
thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách và cũng luôn được xem xét từ
khía cạnh tài chính nói trên. Việc xem xét, đánh giá các dự án đầu tư của người ra
Quyết định đầu tư hay của nhà tài trợ trước hết cũng trên khía cạnh tài chính. Một
số dự án chỉ có thể thực hiện nếu có tính khả thi về mặt tài chính.
3.2. Là hoạt động diễn ra trong khoảng thời gian dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác,
đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài, bởi vì các hoạt động đầu tư thường
luôn có số lượng vốn bỏ ra rất lớn do đó để thu hút đủ vốn đầu tư và sinh lời thì
cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Đây là đặc trưng có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động đầu tư.
Do tính chất lâu dài nên sự trù liệu ban đầu đều là dự tính, chịu một xác suất
biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong những vấn đề hệ
trọng tính đến trong mọi nội dung phân tích, đánh giá quá trình thẩm định dự án.
Trang 6
3.3. Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích
trong tương lai.
Đầu tư về phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại đánh đổi lấy
lợi ích trong tương lai (vốn để đầu tư không phải là nguồn lực để dành) Vì vậy
luôn có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng
nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu trong
tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh.
3.4. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả của
hoạt động đầu tư là không thể dự tính một cách khách quan tại thời điểm Quyết
định đầu tư, Quyết định đầu tư phần nào mang tính chủ quan của nhà đầu tư và
không thể lường hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự án trong
tương lai (thay đổi về thị trường, về sản phẩm đầu vào, đầu ra, lạm phát...). Vì vậy,
chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư. Tuy nhiên nhận thức rõ ràng điều
này nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để
khả năng rủi ro xảy ra là thấp nhất.
Thông qua những đặc trưng của hoạt động đầu tư giúp nhà đầu tư có đựơc
cái nhìn bao quát về mọi khía cạnh của dự án. Từ đó giúp cho quá trình phân tích,
đánh giá dự án một cách cặn kẽ và chính xác. Đồng thời tìm ra phương pháp, biện
pháp nhằm hạn chế rủi ro bởi các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự
án.
4. Thẩm định dự án đầu tư và ý nghĩa của nó.
Một mặt, vì liên quan đến một thực tế trong tương lai, bất kì một dự án đầu
tư nào cũng mang tính phỏng định và mang trong mình nó một độ bất định.
Mặt khác, một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các tư vấn
lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Các nhà soạn
thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Do vậy, một
dự án dù soạn thảo kỹ đến đâu (theo đánh giá của người lập) cũng mang tính chủ
Trang 7
quan của ngươì soạn thảo và không xem xét, dự tính, đánh giá hết được tất cả các
khía cạnh liên quan hoặc đôi khi ý đồ của nhà đầu tư mà một số khía cạnh không
được đề cập đến.
Bên cạnh đó, Quyết định đầu tư hay tài trợ theo một dự án đầu tư là một
Quyết định tài chính dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn trả vốn dài,
chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án và nhà tài trợ
cũng cần xem xét, đánh giá, kỹ càng trước khi Quyết định đầu tư. Hơn nữa, dự án
đầu tư trước khi được thực hiện sẽ còn liên quan, ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều
bên liên quan khác nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên quan
để thấy được lợi ích thực do dự án đầu tư đem lại cho các bên, cho xã hội.
Vậy: Thẩm định dự án đầu tư là việc phân tích, đánh giá, xem xét một các
khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới
tính khả thi của một dự án để từ đó ra các Quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hay
ra các Quyết định tài trợ.
Về phía chủ đầu tư: Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp chủ đầu tư lựa
chọn được phương án đầu tư tối ưu, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, khả
năng tự có cũng như khả năng huy động các nguồn vốn, và giảm chi phí chuẩn bị
cũng như tiến hành hoạt động đầu tư đem lại lợi nhuận cao trong tương lại để
Quyết định đầu tư.
Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô của nhà nước: Việc thẩm định dự án đầu
tư sẽ giúp các cơ quan này đánh giá được tính cần thiết và phù hợp của dự án với
chiến lược, chương trình, kế hoạch kinh tế quốc dân thông qua các chương trình
phát triển liên kết, kế hoạch sản xuất ngành, địa phương, các công trình hỗ trợ trên
các mặt: Mục tiêu, quy hoạch và hiệu quả. Nó giúp xác đinh được cái lợi, cái hại
của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động như công nghệ cũ, vốn, gây ô nhiễm
môi trường và các lợi ích kinh tế xã hội khác.
Về phía các nhà tài trợ: Việc thẩm định sẽ giúp họ đánh giá, xem xét lại các
chi phí và hiệu quả của dự án, các luồng dịch chuyển về giá trị trên cơ sở đó có
chấp nhận các kế hoạch trả nợ không và từ đó có Quyết định tài trợ đúng đắn. Điều
Trang 8
này giúp cho các nhà tài trợ hỗ trợ chủ dự án sử dụng đồng vốn có hiệu quả đồng
thời bảo đảm sự an toàn tài chính cho chính nhà tài trợ.
Tóm lại, thẩm định dự án đầu tư là một công việc cần thiết, mặc dù đôi khi
khá phức tạp do có sự tồn tại của các cơ hội kinh tế thay thế lẫn nhau để tận dụng
các nguồn lực.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
Có nhiều khía cạnh có liên quan, tương hỗ khác nhau cùng tạo nên một dự
án tổng thể. Nhìn chung, chúng thuộc loại hình kỹ thuật, kinh tế, kinh tế, tài chính
và pháp luật, nhưng quan hệ của chũng làm rõ tới mức toàn bộ chúng cần phải
được cân nhắc, xem xét trước khi ra Quyết định đầu tư.
+ Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án:
Thẩm định với tư cách pháp nhân của chủ đầu tư (Quyết định thành lập,
giấy phép kinh doanh, văn bản bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng). Xem xét các
hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của nhà nước và pháp luật có đúng, hợp lệ
hay không
Thẩm định mục tiêu dự án để xem xét xem: mục tiêu của dự án có phù hợp
với chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, vùng hay địa phương,
ngành hay không. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề nhà nước
cho phép hoạt động hay không. Có thuộc nhóm ngành nghề ưu tiên hay không.
+ Thẩm định về thị trường của dự án:
Khía cạnh này cho phép thấy được đầu ra của dự án có thực hiện được
không khi dự án được tiến hành. Vì vậy nội dung của thẩm định là kiểm tra, xem
xét sản phẩm của dự án được sử dụng để đáp ứng nhu cầu trong nước hay bán trên
thị trường quốc tế. Dự án có những ưu thế và bất lợi gì so với các đối thủ cạnh
tranh. Lưu ý đến xu hướng sản phẩm xét theo trình độ phát triển công nghệ và chu
kỳ sản phẩm.
Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô của dự án, lựa chọn
thiết bị, công suất và dự kiến khả năng tiêu thụ. Phân tích và dự đoán đúng về thị
Trang 9
trường là một công việc khó khăn, song độ chính xác của phân tích thị trường sẽ
ảnh hưởng tới thành công của dự án.
+ Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án:
Mục tiêu thẩm định ở đây là để kiểm tra việc xác định cấu hình kỹ thuật
cũng như những phương diênj cốt yếu khác định hình trên dự án. Câu hỏi đặt ra ở
đây cần trả lời là liệu dự án có thực hiện về mặt kỹ thuật hay không. Thông tin vè
đời công nghệ hữu dụng của dự án. Thường thì khía cạnh này được quan tâm ngay
từ khi lập dự án, vì các chủ đầu tư phải ta được Quyết định việc lựa chọn trang
thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ.
Nhưng các nhà thẩm định độc lập sẽ kiểm tra công cụ sử dụng trong tính
toán. trong đó lưu ý đặc biệt đến các định mức kinh tế kỹ thuật. Đối với định mức
kinh tế - kỹ thuật phải rà soát cho phù hợp với điều kiện cụ thể của dự án như:
- Kiểm tra những sai sót trong tính toán: tính toán không đúng, không đủ,
không phù hợp.
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ thiết bị đối với dự án, cũng như tác
động của chúng đến môi trường.
+ Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lí.
Việc thẩm định dự án để cho được hiệu quả thì không thể chỉ hạn chế trong
việc đánh giá về tài chính và kinh tế các chi phí và lợi ích với giả thiết rằng dự án
sẽ được xây dựng và hoạt động đúng kỳ hạn. Điều này giả thiết là phải có sự hỗ trợ
về mặt hành chính để thực hiện dự án, điều này đặc biệt quan trọng đối với các
nước đang phát triển, mà ở nhiều nước việc đó lại hoàn toàn không có. Rất nhiều
dự án đã thất bại vì chúng đã được thực hiện trong điều kiện không có sự hiểu biết
về quản lí hành chính cần thiết cho việc triển khai dự án theo đúng yêu cầu quy
định. Triển vọng các lợi ích về mặt kinh tế tài chính có đạt được hay không là tuỳ
thuộc vào năng lực quản lí hành chính của cơ quan có trách nhiệm thi hành dự án.
Bên cạnh đó thị trường lao động cần phải được nghiên cứu kỹ nhằm đảm bảo rằng
các tính toán về các mức tiền lương phải trả là chính xác, cũng như nguồn cung
Trang 10
cấp nhân lực dự trù là hợp lí trong điều kiện cụ thể của thị trường lao động đảm
bảo được chất lượng công việc trong dự án.
+ Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án.
Quá trình phân tích tài chính là khâu tổng hợp đầu tiên các biến số tài chính
với các biến số kỹ thuật đã được tính toán trong các phần nêu trước đây và là dữ
liệu đầu vào cho các khâu thẩm định kinh tế - xã hội về sau.
Thẩm định tài chính là khâu hết sức quan trọng để các nhà đầu tư cũng như
các nhà tài trợ hay các nhà quản lí có thể đưa ra các Quyết định đầu tư đúng đắn
(Bởi vì chỉ rõ lợi ích kinh tế cụ thể đối với họ). Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn
ở phần sau.
+ Thẩm định về kinh tế - xã hội.
Nếu như mục đích của thẩm định tài chính dự án là nhằm đánh giá dự án từ
quan điểm của các chủ dự án thì mục đích của công việc thẩm định trong khâu này
là đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xem xét việc thực hiện
dự án có cải thiện được phúc lợi kinh tế quốc gia hay không.
- Dự án có thể giúp đạt được những mục tiêu xã hội nào đó của chính
quyền (dự án có tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống...)
- Ai là đối tượng được hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người chịu chi phí
của dự án và hưởng lợi hay chịu chi phí theo cách nào ?
Một điều lưu ý khi thẩm định là phân tích kinh tế có tác động môi trường
của dự án đầu tư. Đã đến lúc người ta quan tâm đến sự “phát triển bền vững, phát
triển lâu bền”. Vấn đề không phải là chúng ta buộc phải lựa chọn giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường, mà phải là tìm cách phát triển một cách phù hợp, hài
hoà để đảm bảo được phát triển lâu bền. Vì vậy, việc đánh giá tác động đến môi
trường của các dự án trở thành một nhu cầu bức thiết và bắt buộc với các dự án
đầu tư.
Trang 11
Toàn bộ quá trình thẩm định thường là rất phức tạp, có tính liên ngành, đòi
hỏi sự liên kết, hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh
tế, kĩ thuật, môi trường mới có thể tiến hành thực hiện có hiệu quả.
Do quá trình thẩm định gồm nhiều giai đoạn nên việc thẩm định các khía
cạnh trên sẽ được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào. nếu là giai đoạn soạn thảo thì
do các nhà lập dự án thẩm định. Song một dự án hình thành xong, phân tích các
khía cạnh nêu trên phải được tiến hành một cách nghiêm túc và khách quan, để
trên cơ sở đó ra Quyết định chứ không phải ngược lại chỉ là hình và nhằm chứng
minh cho một Quyết định đã có. Chính vì vậy mà các cơ quan tư vấn hoặc chuyên
gia được giao trách nhiệm thực hiện công việc thẩm định, người thực hiện công
việc không thể là người của dự án.
Thẩm định dự án cần phải được tiến hành ở tất cả các khía cạnh nêu trên.
Nó nằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính toán các biến cố chủ yếu mà
chủ dự án đã lập. Việc đưa ra các kết luận đánh giá trên các khía cạnh sẽ cho phép
đưa ra các Quyết định đầu tư hay Quyết định tài trợ đúng đắn và là cơ sở cho khả
năng dự án sẽ đứng vững trong vòng đời hữu dụng của nó.
Tóm lại, ta có thể nghĩ về một dự án như là một tập hợp các quan hệ giao
dịch, qua đó các cá nhân hay tổ c hức phải chịu các chi phí khác nhau và nhận
được những lợi ích khác nhau. Việc thẩm định dự án từ một số quan điểm khác
nhau là rất quan trọng vì chúng cho phép các nhà phân tích xác định xem các thành
viên liên quan đến dự án có thấy đáng tài trợ, đáng tham gia thực hiện dự án hay
không. Để đảm bảo cho việc phê chuẩn và thực hiện thành công một dự án phải
hấp dẫn đối với tất cả những người đầu tư và những người thực hiện có liên quan
tới dự án.
II. PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CÁC
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG.
1.Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Để thực hiện một cách chính xác về hiệu quả dự án cần thực hiện các bước
sau:
Trang 12
1.1.Các bước thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Kiểm tra tính hợp lí, hợp lệ, đúng, đủ của số liệu trong các mẫu biểu đưa
ra trong dự án.
Thực hiện việc thu thập, tổng hợp, xem xét lại các cơ sở của các số liệu đưa
ra trong dự án, đối chiếu (nếu có thể) với các chỉ tiêu tham chiếu của ngành, của
nền kinh tế để kiểm chứng. Các số liệu này sẽ ảnh hưởng tới phương pháp và kết
quả phân tích các chỉ tiêu tài chính của dự án. một số bảng dự trù tài chính:
- Dự trù chi phí mua sắm thiết bị
- Dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
- Dự trù doanh thu lỗ lãi.
- Dự trù bảng cân đối thu chi
- Kế hoạch vay vốn và trả nợ.
- Dự trù bảng cân đối tài sản.
Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án:
Tổng vốn đầu tư của dự án đã được các chủ đầu tư dự kiến, song Ngân hàng
cần tiến hành xem xét lại, điều này quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp dự án được
thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, vốn đầu tư thiếu sẽ
gây cho hoạt động của dự án sau này và ngược lại thừa vốn đầu tư có thể gây lãng
phí vốn và làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư là tập hợp toàn
bộ các chi phí góp phần tạo nên thực trạng công trình và bảo đảm cho công trình
sẵn sàng đưa vào khai thác, sử dụng.
Thành phần vốn gồm có vốn cố định và vốn lưu động :
+ Vốn cố định: Nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu của dự
án. Bao gồm:
Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm định dự
án đầu tư.
Vốn chuẩn bị xây dựng bao gồm:
Trang 13
Chi phí ban đầu về đất đai (đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển quyền sử
dụng đất).
Chi phí khảo sát, thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán. chi phí
đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư (cấp giấy phép xây dựng, giám định, kiểm tra
thiết bị...)
Chi phí xây dựng đường điện, nước, thi công, lán trại thi công.
Vốn thực hiện đầu tư:
Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục công trình, lắp đặt thiết bị.
Chi phí thiết bị: Chi phí mua sắm thiết bị, chi phí vận chuyển về công trường, bảo
quản thiết bị.
Chi phí quản lí, giám sát thực hiện đầu tư.
Chi phí sản xuất thử và