Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và
tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng
vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy,
việc huy động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT
(đặc biệt là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của
các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính nhà nước được Chính
phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 để thực hiện nhiệm vụ
huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT,
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (HTXK). Kể từ khi thành l ập đến nay, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước thông qua hoạt động của Quỹ HTPT đã có những đóng góp nhất định trong việc
tăng cư ờng cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng
chiến lược và có lợi thế, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
cho ĐTPT cũng như phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT là điều cần thiết, góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua
hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển" để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành: Kinh tế
các ngành sản xuất và dịch vụ.
111 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề
Trong phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, tín dụng nhà nước nói chung và
tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và sử dụng
vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó có nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Bởi vậy,
việc huy động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT
(đặc biệt là ở những nước đang phát triển) là điều cần thiết.
Chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án ĐTPT của
các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các vùng khó khăn cần
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính nhà nước được Chính
phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 để thực hiện nhiệm vụ
huy động, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng ĐTPT,
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (HTXK). Kể từ khi thành lập đến nay, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước thông qua hoạt động của Quỹ HTPT đã có những đóng góp nhất định trong việc
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng
chiến lược và có lợi thế, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
cho ĐTPT cũng như phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, việc
nghiên cứu tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT là điều cần thiết, góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua
hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển" để làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành: Kinh tế
các ngành sản xuất và dịch vụ.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
+ Tập hợp một số vấn đề lý luận về tín dụng của Quỹ HTPT và hiệu quả của nó.
+ Phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ HTPT, đánh giá những kết quả đạt
được, các hạn chế trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ
HTPT.
+ Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, định hướng, mục tiêu phát
triển kinh tế của Đảng và Chính phủ để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ HTPT ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua
Quỹ HTPT từ khi thành lập đến 31-3-2004.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu, các
phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng để nghiên cứu.
Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và với kinh nghiệm
của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc... nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm đối với nước ta.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và hiệu quả của nó.
Chương 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Chương 1
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
và hiệu quả của nó
1.1. Chức năng và vai trò của tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay có
hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một
phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi tổ chức, cá nhân nhường quyền
sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một tổ chức hay cá nhân với những điều
kiện ràng buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn
và thu hồi...
Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài. Trong chế
độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp kém, công cụ lao
động hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân công lao động chưa phát
triển... do lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự
trữ và do vậy chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội
nguyên thủy chưa thể có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất
phát triển, cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản
xuất sản phẩm không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích lũy dự trữ, do đó,
xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu (cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, xã hội
lúc này đã có sự phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp được hình thành. Chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất
hành hóa ra đời, do đó các quan hệ mua, bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những
hình thức vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.
Như vậy có thể khẳng định, tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa, trong điều
kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa, tiền tệ thì tồn tại tín dụng là một
tất yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng hóa và mối quan hệ hàng hóa hình thành
quan hệ hàng hóa tiền tệ trong xã hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là
tiền đề khách quan phát sinh các quan hệ tín dụng, tính tất yếu khách quan của tín dụng
nảy sinh.
Do đặc điểm của tính luân chuyển của vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận động
của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện tượng phổ biến là
trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân phát sinh nhu
cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian
đó có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong một thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xen kẽ lẫn nhau
trong quá trình tuần hoàn của vốn tiền tệ, mâu thuẫn đi đến phải được giải quyết bằng các
phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn đó, có nghĩa là phải tiến
hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm điều hòa kịp
thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng các quan hệ kinh tế để tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh vượng trong nền kinh tế thị
trường dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là quan hệ tín dụng.
1.1.2. Bản chất tín dụng
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho
vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử
dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế - xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời
hạn và phải được "hoàn trả". Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được
nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
1.1.3. Chức năng của tín dụng
Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất
những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động của vốn tiền tệ
trong xã hội, tín dụng có ba chức năng chính như sau:
+ Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà
các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng
nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành
chức năng cốt lõi của tín dụng.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc
đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
+ Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội
Hoạt động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu
thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện
thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, chuyển khoản hoặc bù trừ... cho
phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có
liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền...
+ Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của
vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hóa, chi
phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm gương phản ánh
hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các
hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp...
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.1.4. Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền
kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm vai trò hai mặt tích cực, mặt tốt, và mặt tiêu
cực, mặt xấu. Chẳng hạn, nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không
những không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây
ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.
Nếu xét về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây:
Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa lưu thông phát triển: Tín
dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động) cho các
doanh nghiệp các tổ chức kinh tế; tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn
một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Trong khi thực hiện
chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng góp phần làm giảm
khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp
dân cư, làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng
vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ
làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần
làm ổn định thị trường giá cả trong nước...
Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm: Tín dụng có tác
dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu
đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng
trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao
động, đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực
lượng sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, có thể nói, tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng
không những ở đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm
giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước,
làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.5. Các hình thức tín dụng
* Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau.
Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là
cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.
Tín dụng thương mại ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân
chuyển vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn nhau không
những giữa các doanh nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn
giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện tượng
trong một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng hàng hóa đang cần bán,
nhưng chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những
sản phẩm hàng hóa ấy để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền.
Hiện tượng này có thể giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu
hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại đều
có lợi đối với cả hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy
tín dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao như hiện nay.
* Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh
nghiệp và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng
tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối các đối tượng nói trên. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới dạng tiền tệ. Nguồn vốn tín
dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
ngân hàng huy động được. Trong quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò
là "người đi vay", vừa đóng vai trò "người cho vay".
Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống
ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng
chuyên nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.
* Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức tài
chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau
để phát triển kinh tế xã hội của một nước.
* Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ,
chính quyền địa phương...) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó, chủ yếu là
Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành trái
phiếu để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phục vụ các đối
tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã
hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất
định, tín dụng nhà nước không phải là khoản thu của Nhà nước.
Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả, có thời hạn
và phải trả một khoản tiền về sử dụng vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy
động được dưới hình thức công trái (trái phiếu Chính phủ) thuộc quyền sử dụng của Nhà
nước, chúng được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của Nhà nước. Vốn ngân sách là
nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt động của kiến
trúc thượng tầng chính trị và sự vận động của vốn ngân sách, biểu hiện một bộ phận của
quan hệ tài chính Nhà nước.
Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước chủ yếu để
cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.
1.2. tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chỉ ra đời khi mục đích của tín dụng nhà nước
chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả. Tính kinh tế của hoạt động
tín dụng ĐTPT của Nhà nước xuất hiện khi các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn
vốn này để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Giống như các
hình thức tín dụng khác, cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập
trung được nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng và chủ
động trong việc giải quyết các mục tiêu vào ĐTPT.
Tuy nhiên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở
đó tính kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là kinh tế đơn thuần. Thông thường tính
kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước có những đặc tính sau:
- Tính kinh tế vĩ mô: Tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực
then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc một ngành,
một vùng, hay một khu vực.
- Tính xã hội: Tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà tín
dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do
hiệu quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn,
hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước:
việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế vùng,...
1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Cơ chế kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu, đó là sự phân hóa
giàu nghèo, khai thác tài nguyên, nguồn lực một cách bừa bãi, ảnh hưởng ô nhiễm môi
trường và sức khỏe dân cư làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng, tính chu kỳ trong phát
triển kinh tế đôi khi dẫn đến sự lầm đường lạc lối như khủng hoảng, độc quyền, lạm phát
và thất nghiệp.
Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp
giữa thị trường - bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình đang
ngày càng chiếm ưu thế, ở đây nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò điều tiết kinh tế
của Nhà nước.
Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài
chính vốn có như thuế, phí, chi ngân sách nhà nước (NSNN),... Ngoài ra, Nhà nước còn
thành lập các doanh nghiệp nhà nước và thông qua đó thực hiện việc đầu tư theo mục tiêu
của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp này thường nằm
trong các lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực hoạt động có
tính chất xã hội. Đối với các doanh nghiệp này, tùy theo điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh
tế từng thời kỳ và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước từng giai đoạn mà Nhà nước thường
cung cấp vốn dưới dạng cấp phát trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng. Như vậy, tín
dụng ĐTPT của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của
Chính phủ trong một giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi
nước.
Đối với nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để
tham gia hoạt động ĐTPT là một vấn đề tất yếu, do đó vai trò điều tiết kinh tế của Nhà
nước lúc này cần được tăng cường vì phải xây dựng các nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết
cho nền kinh tế và phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh sản phẩm,... Để thực hiện
được nhiệm vụ nặng nề này, phạm vi cấp phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN cho
ĐTPT kinh tế phải thu hẹp, thay thế vào đó là mở r