Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể khẳng định các hoạt động đầu tư
trong đó có đ ầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là một nhân tố quan
trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, đối với các
nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như “một cái hích ban đầu” tạo đà cho sự
cất cánh của nền kinh tế bởi phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các
nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
Có thể coi FDI là một biện pháp rất hữu hiệu để khắc phục tình trạng thiếu vốn -một vấn đề đang đặt ra đối với hầu hết các nước đang phát triển.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy mới bắt đầu từ năm 1988
nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt kể từ khi thực hiện Luật đầu
tư nước ngoài năm 1996 và sửa đổi bổ sung năm 2000 hoạt động FDI đã có những
bước phát triển mới. Việc đánh giá vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế nhằm
th ấy rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư này từ đó có các biện pháp thu hút
và sử dụng FDI ngày càng có hiệu quả hơn
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực cảu FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số giải pháp nhằm
tăng cường vai trò tích cực
cảu FDI vào Việt Nam
trong thời gian tới
2
Lời Mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể khẳng định các hoạt động đầu tư
trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là một nhân tố quan
trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, đối với các
nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như “một cái hích ban đầu” tạo đà cho sự
cất cánh của nền kinh tế bởi phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các
nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
Có thể coi FDI là một biện pháp rất hữu hiệu để khắc phục tình trạng thiếu vốn -
một vấn đề đang đặt ra đối với hầu hết các nước đang phát triển.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy mới bắt đầu từ năm 1988
nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt kể từ khi thực hiện Luật đầu
tư nước ngoài năm 1996 và sửa đổi bổ sung năm 2000 hoạt động FDI đã có những
bước phát triển mới. Việc đánh giá vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế nhằm
thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư này từ đó có các biện pháp thu hút
và sử dụng FDI ngày càng có hiệu quả hơn.
3
Chương một
Cơ sở lý luận
I/ Khái niệm và đặc điểm của FDI
1) Khái niệm:
Có thể hiểu đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kêt quả nhất định nào đó trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực bỏ ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có bản chất như đầu
tư nói chung, đó là sự tìm kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn lực để thực
hiện một hoạt động. Tuy nhiên, FDI nhấn mạnh đến địa điểm thực hiện hoạt động
này- là ở quốc gia khác chứ không phải tại quốc gia của nhà đầu tư trong đó nước
nhận đầu tư gọi là nước chủ nhà còn nước chủ đầu tư gọi là nước đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc chủ đầu tư của quốc gia này
(thường là một công ty hay một cá nhân cụ thể) mang các nguồn lực cần thiết sang
thực hiện tại một quốc gia khác. Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quán trình trình
khai thác kết quả đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng vốnc của mình.
2) Đặc điểm:
Đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều có những đặc
điểm chung như tính rủi ro và khả năng sinh lời, tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện tại một một nước khác với những điều kiện có thể hoàn toàn khác
biệt với so với nước của mình do đó chủ đầu tư thường gặp rủi ro nhiều hơn so với
những dự án thực hiện tại nước của mình. Bên cạnh đó, với việc di chuyển nguồn
lực sang nước khác, chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với những vần đề về thuế nhập
khẩu, thủ tục hải quan và hàng loạt các chính sách liên quan như như chính sách
tiền tệ, tỷ giá hối đoái... mà chủ đầu tư trong nước không phải lo lắng.
II/ Vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế
1) FDI tác động đến tổng cung và tổng cầu:
- Về mặt cầu: Đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển
sang D’) kéo sản lượng cân bằng từ tăng theo từ Q0 đến Q1 và giá cả của các đầu vào
của đầu tư tăng từ P0 đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
4
P
S
P1 E1
P2 E0
S’
P3
E2
Q0 Q1 Q2 Q
2) FDI có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Đầu tư làm cho sản lượng tăng, giá cả giảm, kích thích sản xuất, tạo việc làm
và duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng đầu tư làm cho
giá các hàng hoá có liên quan tăng (giấ chi phí vốn, công nghệ, lao động, vật tư...)
tăng từ đó dẫn đến tình trạng lạm phát, thất nghiệp. Như vậy, đầu tư vừa duy trì sự
phát triển ổn định của nền kinh tế đồng thời cũng phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.
Do đó, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy
hết hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy
tác dụng tích cực, duy trì được sự ổn định của nền kinh tế.
3) FDI làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước:
Về công nghệ hiện nay, trình độ của Việt Nam rất thấp so với các nước trên
thế giới (theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ làm 7 giai đoạn thì
Việt Nam đang ở giai đoạn thứ 2- là một trong những nước kém nhất về công nghệ).
Công nghệ là trung tâm, là điều kiện rất quan trọng để tiến hành công
nghiệp hoá do đó để cải thiện tình hình này thì ngoài việc tự nghiên cứu nhất thiết
phải nhập công nghệ từ nước ngoài. Và như vậy vốn đầu tư là rất quan trọng bởi
5
mọi phương án đổi mới công nghệ đều không khả thi nếu không gắn với nguồn
vốn đầu tư.
4) FDI góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế được xác định bởi số lượng tỷ trọng các bộ phận trong nền
kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Kinh nghiệm của các nước trên thế
giới cho thấy muốn phát triển kinh tế thì cần tập trung vào các bộ phận tạo ra
tăng trưởng cao là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính đầu tư đã
quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu nhằm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh của
toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, FDI có tác động giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng
đói nghèo đồng thời phát huy tối đa những lơị thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp
thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
5) FDI có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào vốn
đầu tư, quan hệ này được biểu diễn bởi phương trình:
I = ICOR x GDP
ICOR =
GDP
I
ICOR là một hệ số phản ánh thực trạng đầu tư của nền kinh tế, là tỷ lệ giữa
lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP gia tăng. Nếu ICOR càng nhỏ
thì hiệu quả vốn đầu tư càng cao. Các yếu tô ảnh hưởng đến ICOR như sau:
Thứ nhất là cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng kinh, theo thành
phần kinh tế. Đầu tư nhiều vào các cơ sở sản xuất, trực tiếp tạo ra GDP và làm tăng
giá trị GDP thì hệ số vốn có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu tập trung nhiều hơn vào
các ngành và lĩnh vực không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá (đầu tư vào
giao thông, hạ tầng xã hội, xoá đói giảm nghèo...) sẽ làm cho hệ số vốn cao hơn, xét
vế mặt nào đó kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong đầu tư phải cân đối giữa các
ngành, lĩnh vực, các vùng và các thành phần kinh tế.
Thứ hai là quy mô của các dự án đầu tư. Có càng nhiều công trình với quy
mô lớn, thời gian xây dựng kéo dài thì sẽ có xu hướng làm tăng hệ số vốn. Ngược
lại, nếu đầu tư nhiều dự án quy mô nhỏ thì hệ số vốn sẽ nhỏ đi và do nhanh chóng
đưa vào khai thác sử dụng, tạo ra sản phẩm hàng hoá.
Thứ ba là trình độ quản lý trong đầu tư và xây dựng cũng có tác dụng tăng
hoặc giảm hệ số ICOR. Quản lý tốt, không để thất thoát lãng phí, suất đầu tư nhỏ, sẽ
tạo điều kiện để giảm hệ số vốn đầu tư.
6
Như vậy, việc bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo điều kiên để tăng hiệu quả
đầu tư, tác động không cho hệ số vốn tăng nhanh. Tuy nhiên, xu thế hệ số vốn sẽ
tăng dần do càng ngày càng có nhiều công trình dự án với quy mô lớn hơn, càng
ngày càng phải đầu tư các dự án ở những nơi kém lợi thế hơn về mặt sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, suất đầu tư lớn hơn.
Trước mắt, việc kết hợp giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm
nghèo, tạo nhiều việc làm, giải quyết công bằng xã hội cũng là những yếu tố làm
tăng hệ số vốn đầu tư. Do vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra cơ cấu đầu tư thât hợp lý
cả về cơ cấu ngành, lĩnh vực; cơ cấu quy mô các loại dự án; cơ cấu điều đầu tư theo
các thành phần kinh tế... đồng thời phải có chính sách thích hợp để quản lý tốt hơn
nguồn vốn đầu tư.
Do đặc điểm của FDI là ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị, bên nước ngoài
trực tiếp tham gia quản lý sản xuất nên FDI ngày càng có vai trò to lớn thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Cụ thế là:
+ Đối với các nước đầu tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu
quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và
nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng. Mặt khác, thông qua việc
đầu tư ra nước ngoài các nước đầu tư sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh
hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
+ Đối với nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển, FDI giúp
đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới,
thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Quan trọng hơn, FDI
còn giúp tăng thu ngân sách thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài.
Ngoài ra, với các máy móc, thiết bị cũng như những kiến thức quản lý kinh
tế, xã hội hiện đại được đưa vào sản xuất, FDI sẽ giúp các nước đang phát triển tiếp
cận với khoa học công nghệ tiên tiến từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh cũng
như bắt kịp với phương thức quản lý công nghiệp hiện đại góp phần hình thành dần
đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Trước hết, để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời của bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng cần phải thực hiện các hoạt động đầu tư (xây dựng nhà
xưởng, lắp đặt thiết bị máy móc...). Sau một thời gian hoạt động, để duy trì được
hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa lớn, mua sắm trang thiết bị mới nhằm
đáp ứng với điều kiện mới. Điều này cũng có nghĩa là phải đầu tư. Như vậy, sự tồn
tồn tại của doanh nghiệp được quyết định bởi đầu tư tái sản xuất giản đơn tài sản cố
định và các tài sản khác. Đầu tư quyết định sự phát triển thể hiện ở chỗ đầu tư tái
sản xuất mở rộng.
7
III/ Các hình thức FDI
1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh:Là hình thức đầu tư mà các bên tham
gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất
kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh
doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên tham
gia.
Hình thức này không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn,
cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
2) Doanh nghiệp liên doanh:
Là doanh nghiệp được hình thành giữa một bên là nước nhận đầu tư (nước
chủ nhà) với một bên là hoặc các bên nước ngoài trong đó các bên cùng đóng góp
vốn, cùng kinh doanh và hưởng quyền lợi nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp liên
doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp
nhân. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên
doanh thoả thuận nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp
liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư phổ biến được các nước chủ
nhà đặc biệt là các nước đang phát triển khuyến khích áp dụng bởi ưu điểm của hình
thức này là nước nhận đầu tư được tham gia vào điều hành quá trình kinh doanh do
đó tiếp thu được công nghệ tiên tiến đồng thời nâng cao được kinh nghiệm quản lý.
3) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá
nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự
quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư
cách pháp nhân.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức được các nhà đầu tư nước
ngoài ưa chuộng vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo
ra đồng thời giữ được các bí mật về công nghệ.
Ngoài ra, còn có một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
+ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT): Với hình thức này,
các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong
một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Saukhi dự án kết
thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ
một khoản tiền nào.
8
+ Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinhdoanh (BTO): Khác với hình thức
BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà.
Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
+ Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT): Với hình thức này, sau khi xây
dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà
sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu
tư và có lợi nhuận hợp lý.
IV/ Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
1) Đối với nước chủ nhà
1.1 Môi trường chính trị
ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư bởi
nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn
đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một
nước. ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã hội và giảm bớt rủi ro
cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn
định sẽ dẫn tới việc bất ổn về chính sách và đường lối phát triển không nhất quán.
1..2 Môi trường luật pháp
Môi trường luật pháp ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để
quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các
chính sách, quy định, luật cần thiết dảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng
chéo và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đích chính là kiểm soát các hoạt động của các
nhà đầu tư, việc khống chế một mức vốn sở hữu là một biện pháp quan trọng để hạn
chế sự can thiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam quy định các nhà đầu phải
góp vốn không ít hơn 30% đối với hình thức liên doanh.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức
thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác.
- Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp
giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc...)
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các quy định về việc mở tài khoản
ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Việc chuyển đổi giữa đồng
nội tệ và ngoại tệ cũng như việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài được quy định khác
nhau giữa các nước.
- Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hình thành và
triển khai dự án, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền
đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý
việc thực hiện dự án. Theo đó, một dự án được chấp nhận phải có sự nhất trí của
9
tất cả các cơ quan này gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư. Để khắc phục
những hạn chế này, một số nước đã áp dụng hình thức “một cửa”, có nghĩa là
nhà đầu tư chỉ phải liên hệ với một cơ quan chức năng để đề nghị thẩm định dự
án của mình. Mọi thủ tục thẩm định sẽ do cơ quan này phối hợp với các cơ quan,
tổ chức có liên quan khác tiến hành. Hình thức này đã được áp dụng tại một số
nước như Thái Lan, Malayxia, Singapore...
- Các chính sách và quy định khác như chính sách về công nghệ, chính sách
môi trường, chính sách lao động tiền lương, chính sách sử dụng các nguồn tài
nguyên, thủ tục khai báo hải quan, quy định về việc khiếu nại, tranh chấp...
1.3 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số... liên quan đến
việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu nhiệt đới
gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn
gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các nhà
đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung ứng sức lao động
dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá.
1.4 Điều kiện phát triển kinh tế
Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô thấp dẫn tới các hiện tượng lạm
phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng
trưởng kinh tế thấp... là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng.
Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước
ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao.
Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là những
yếu tố rất cần thiết để thu hút các nhà đâu tư nươc ngoài.
Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư
nước ngoài, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so
sánh của mình.
1.5 Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội
Bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm
mỹ, hệ thống giáo dục, đạo đức...
Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại
những hậu quả không lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao
cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các
nhà ĐTNN không muốn đầu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác
nhau bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động
kinh doanh của họ.
10
Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là một yếu tố quan trọng để thu hút
ĐTNN chọ các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Trình độ phát triển giáo
dục- đào tạo sẽ quyết định chất lượng của đội ngũ lao động.
2) Đối với nước chủ đầu tư
2.1 Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
Sự thay đổi của các chính sách tài chính- tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất,
làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Việc thay đổi chính
sách từ “nới lỏng tiền tệ- thắt chặt tài chính” sáng “thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài
chính” sẽ làm cho mức lãi suất trong nước cao hơn, cải thiện môi trường đầu tư
trong nước từ đó làm giảm đầu tư ra nước ngoài.
Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao
có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm và
ngược lại.
ảnh hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra
nước ngoài được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp
định thương mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận
lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt
qua rào cản thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đầu
tư hạ mức rào cản đối hàng hóa từ nước ngoài nhất là từ các nước đang phát triển
thì các nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm
kiếm nguồn nguyên liệu mới để sản xuất hàng hoá và lại nhập khẩu lại nước mình.
Nếu nước đầu tư nới lỏng các chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do
hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài
và ngược lại. Thực tế cho thấy việc xoá bỏ các quy định quản lý ngoại hối của một
số nước như Nhật Bản(1983), Anh (1979), Thuỵ Điển (1980)... đã thúc đẩy mạnh
mẽ dòng đầu tư ra nước ngoài của những quốc gia này.
2.2 Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
Việc ký kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng
hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư nươc ngoài. Các hiệp định đầu tư
song phương và các hiệp định đa biên được ký nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, từ cuối những năm 80, số hiệp định đầu tư song
phương giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển tăng nhanh khiến cho
dòng đầu tư