Từ thuở sơ khai của lịch sử loài người, nguồn thực phẩm chính nuôi sống loài 
người đã được khai thác dưới hình thức là hái lượm, đó chính là nguồn rau quả tự 
nhiên cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người những nguồn rau quả mới 
được phát hiện khai thác và sử dụng ngày càng nhiều. Đặc biệt là từ cuối thế kỷ 19, 
đầu thế kỷ 20 khi mà nhà sinh vật học Međen đưa ra những định luật về di truyền học 
thì ngày càng nhiều những loại ra quả mới được ra đời cùng với sự phong phú đa dạng 
về chủng loại thì năng suất của chúng cũng ngày càng được nâng cao mang lại cho loài 
người một lượng dồi dào về lương thực, thực phẩm. Ngày nay khi mà lịch sử loài 
người đã bước vào thập niên thứ 3 với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật 
và thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của sinh học thì chắc rằng ngày càng nhiều những loài 
mới được tạo ra, và lĩnh vực rau quả, thực vật là lĩnh vực sẽ có nhiều biến đổi lớn lao 
nhất và sẽ có những loại rau quả với năng suất và chất lượng cao lần lượt xuất hiện để 
đáp ứng được nhu cầu của con người ngày càng lớn và ngày càng phong phú và đa 
dạng,
Nước ta là một nước khí hậu nhiệt đới gió mùa, một điều kiện khí hậu thuận lợi 
cho sự phát triển phong phú đa dạng của nhiều lời thực vật, đặc biệt là những loài ra 
quả nhiệt đới. Ngay từ ngày xưa ông cha ta đã khai thác chúng và sử dụng như một 
nguồn thự phẩm và là những vị thuốc hữu dụng để chữa trị các chứng bệnh, nhiều loại 
rau quả đã trở thành những đặc sản độc đáo của đất Việt.
Cũng như bao vật phẩm khác, mặt hàng rau quả đã trở thành một mặt hàng thực 
phẩm thiết yếu không chỉ phục vụ cho nhu cầu nội bộ mà nó còn có nhu cầu vươn rộng 
ra không chi thị trường trong nmước mà cả thị trường nước ngoài.
Nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng một nền 
kinh tế mở, xây dựng khu vực thành một ngành kinh tế hiện đại, ngoại thương trở 
thành một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp và trở thành bộ phận 
của nhân tố này. Thực tế cho thấy, các mặt mặt hàng và các sản phẩm chế biến từ rau 
quả nói riêng và các sản phẩm nông nghiệp nói chung đối với các nước đang phát triển 
là những mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt 
động xuất khẩu hàng hoá nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu mặt hàng rau quả 
nói riêng phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán sản phẩm trên thị trường nội địa nhất 
là khi có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cùng một loại hàng hoá sẽ dẫn đến tình trạng 
cạnh tranh về tiêu thụ sản phẩm trên thị trường (nội) thế giới
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 134 trang
134 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2073 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằn mở rộng thị trường xuất khẩu và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Một số giải pháp nhằn mở rộng thị trường 
xuất khẩu và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu 
của Tổng công ty Rau quả Việt Nam 
Lời nói đầu 
 Từ thuở sơ khai của lịch sử loài người, nguồn thực phẩm chính nuôi sống loài 
người đã được khai thác dưới hình thức là hái lượm, đó chính là nguồn rau quả tự 
nhiên cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người những nguồn rau quả mới 
được phát hiện khai thác và sử dụng ngày càng nhiều. Đặc biệt là từ cuối thế kỷ 19, 
đầu thế kỷ 20 khi mà nhà sinh vật học Međen đưa ra những định luật về di truyền học 
thì ngày càng nhiều những loại ra quả mới được ra đời cùng với sự phong phú đa dạng 
về chủng loại thì năng suất của chúng cũng ngày càng được nâng cao mang lại cho loài 
người một lượng dồi dào về lương thực, thực phẩm. Ngày nay khi mà lịch sử loài 
người đã bước vào thập niên thứ 3 với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật 
và thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của sinh học thì chắc rằng ngày càng nhiều những loài 
mới được tạo ra, và lĩnh vực rau quả, thực vật là lĩnh vực sẽ có nhiều biến đổi lớn lao 
nhất và sẽ có những loại rau quả với năng suất và chất lượng cao lần lượt xuất hiện để 
đáp ứng được nhu cầu của con người ngày càng lớn và ngày càng phong phú và đa 
dạng, 
 Nước ta là một nước khí hậu nhiệt đới gió mùa, một điều kiện khí hậu thuận lợi 
cho sự phát triển phong phú đa dạng của nhiều lời thực vật, đặc biệt là những loài ra 
quả nhiệt đới. Ngay từ ngày xưa ông cha ta đã khai thác chúng và sử dụng như một 
nguồn thự phẩm và là những vị thuốc hữu dụng để chữa trị các chứng bệnh, nhiều loại 
rau quả đã trở thành những đặc sản độc đáo của đất Việt. 
 Cũng như bao vật phẩm khác, mặt hàng rau quả đã trở thành một mặt hàng thực 
phẩm thiết yếu không chỉ phục vụ cho nhu cầu nội bộ mà nó còn có nhu cầu vươn rộng 
ra không chi thị trường trong nmước mà cả thị trường nước ngoài. 
 Nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng một nền 
kinh tế mở, xây dựng khu vực thành một ngành kinh tế hiện đại, ngoại thương trở 
thành một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp và trở thành bộ phận 
của nhân tố này. Thực tế cho thấy, các mặt mặt hàng và các sản phẩm chế biến từ rau 
quả nói riêng và các sản phẩm nông nghiệp nói chung đối với các nước đang phát triển 
là những mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt 
động xuất khẩu hàng hoá nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu mặt hàng rau quả 
nói riêng phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán sản phẩm trên thị trường nội địa nhất 
là khi có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cùng một loại hàng hoá sẽ dẫn đến tình trạng 
cạnh tranh về tiêu thụ sản phẩm trên thị trường (nội) thế giới. 
 Để có thể tồn tại và phát triển bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nào 
cũng đều phải có những biện pháp nhằm duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của 
mình. Đó là yêu cầu tất yếu và cơ bản nhất của kinh doanh hiện đại. Song để có được 
một chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp với hoạt động sản xuất kinh 
doanh của mình, doanh nghiệp cần phải dựa vào tiềm lực của chính bản thân mình, xu 
hướng vận động của xã hội mà đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển thị 
trường xuất khẩu. Đây chính là vấn đề mà Tổng công ty Rau quả Việt Nam dành nhiều 
mối quan tâm nhất trong chiến lược phát triển của Tổng Công ty. Tìm ra những thị 
trường mới và xâm nhập củng cố và duy trì những thị trường truyền thống. 
 Xuất phát từ tình hình thực tế trên, sau những năm trau dồi kiến thức và lý luận 
trong trường Đại học kinh tế quốc dân, qua thời gian thực tập tại Tổng công ty Rau 
quả Việt Nam, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô giáo, các cán bộ công nhân 
viên của Tổng công ty, đặc biệt là dưới sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Trần Chí 
Thành, chú trưởng phòng xúc tiến thương mại, em đã chọn vấn đề: "Một số giải pháp 
nhằn mở rộng thị trường xuất khẩu và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng 
công ty Rau quả Việt Nam". 
 Bằng phương pháp duy vận biện chứng, chuyên đề nhằm đánh giá khái quát 
những vấn đề thị trường xuất khẩu, xác định phương hướng mục tiêu trong thời gian 
tới, đồng thời kiến nghị những biện pháp, chính sách nhằm phát triển thị trường xuất 
khẩu hàng rau quả của Tổng công ty trong những năm tới. 
 Kết cấu của chuyên đề, ngoài phần mở đầu, kết luận thì luận văn chia làm 3 
phần: 
Phần I: Lý luận chung về thị trường và phát triển thị trường của các doanh nghiệp 
kinh doanh quốc tế. 
Phần II: Phân tích thực trạng thị trường và phát triển thị trường xuất khẩu rau 
quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam. 
Phần III: Một số biện pháp và kiến nghị nhằm phát triển thị trường xuất khẩu rau 
quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam. 
Sau đây là phần nội dung chi tiết. 
Phần I 
Cở sở lý luận chung về thị trường và việc phát triển thị trường xuất khẩu của các 
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế 
I. Thị trường và vai trò của thị trường đối các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. 
1. Khái niệm về thị trường. 
 Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, phân công lao động xã hội ngày 
càng sâu sắc. Ban đầu lưu thông tác ra khỏi sản xuất và trở thành một khâu trong quá 
trình tái sản xuất xã hội. Tiếp đó trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá xuất hiện hai thái 
cực mua và bán hàng hoá bằng ngoại tệ. Đây là giai đoạn phát triển nhất của các hình 
thức trao đổi hàng hoá cho tới nay. Hình thức khai thác này bao gồm toàn bộ giữa bên 
mua và bên bán diễn ra trong không gian và thời gian nhất định, tuân theo những quy 
định nhất định của bên mua và bên bán. Hình thức này là cơ sở dẫn đến khái niệm thị 
trường. 
 Thị trường là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự sống còn của quá trình 
sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vậy, khái niệm thị trường đã được rất nhiều các nhà 
nghiên cứu kinh tế quan tâm và trên mỗi giác khác nhau thì họ đưa ra những định 
nghĩa khác nhau. 
 Theo quan điểm kinh tế học: "thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại 
hàng hoá nhất định trong không gian và thời gian cụ thể". 
 Định nghĩa này chủ yếu được dùng trong điều tiết vĩ mô thị trường và mang 
tính lý thuyết nhiều hơn. 
 Đối với một nhà quản lý doanh nghiệp khái niệm thị trường phải được gắn với 
các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán, người phân 
phối thì: "Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những kachs hàng tiềm năng của 
doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng là người mua hoặc có thể mua sản phẩm 
của doanh nghiệp đó"... 
 Song nhìn chung khái niệm về thị trường là được hiểu theo nghĩa chung phù 
hợp với mỗi giai đoạn của sự phát triển hàng hoá. 
 Từ khi sản xuất hàng hoá vẫn còn ở giai đoạn sơ khai thì thị trường được hiểu 
theo khái niệm cổ điển "đó là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá". Định này 
cho ta một cách nhìn đơn giản nhất để phân biệt thị trường. 
 Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, sản xuất hàng hoá cũng ngày càng 
phát triển các mối quan hệ trao đổi buôn bán ngày càng nhiều làm cho quá trình lưu 
thông hàng hoá trở nên phức tạp, không đơn giản chỉ là "tiền trao - cháo múc" như 
trước đây mà nó ngày càng đa dạng nhiều kiểu hình khác nhau. Và khái niệm về thị 
trường theo nghĩa cổ điển không còn phù hợp và không bao quát được nội dung mới 
xuất hiện của thị trường. Và khái niệm thị trường theo quan điểm hiện đại sẽ giải quyết 
được những nội dung này: "Thị trường là quá trình người mua và người bán tác động 
lẫn nhau để định giá cả và số lượng của hàng hoá được mua". 
 Trong lĩnh vực xuất khẩu quá trình mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ được 
diễn ra không phải trên nội bộ lãnh thổ của một quốc gia mà diễn ra trên những quốc 
gia khác nhau vì vậy đồng thiền để thanh toán phải là ngoại tệ đối với ít nhất một quốc 
gia và thị trường là thị trường ngoài nước. Đây là thị trường nơi diễn ra các hoạt động 
mua bán vượt ra khỏi lãnh thổ quốc gia. Ngày nayvấn đề phát triển thị trường xuất 
khẩu, hội nhập vào sự phát triển chung của thế giới là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với 
mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Đó là điều kiện sống còn để phát triển và tồn tại của 
mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. 
2. Phân loại thị trường xuất khẩu. 
 Để dễ dàng cho việc nghiên cứu và thấy được các tính chất đăch trưng và quy 
luật vận động của từng loại thị trường, góp phần thành công trong quá trình tìm kiếm 
giải pháp phát triển thị trường của doanh nghiệp chúng ta cần phải phân loại thị 
trường. 
 Phân loại thị trường là việc chia thị trường theo các góc độ khách quan khác 
nhau. Dưới mỗi một góc độ thì mỗi loại thị trường phả ánh một mặt của góc độ đó. 
a. Căn cứ vào lượng người mua bán tham gia thị trường có: 
 Thị trường độc quyền: Là loại thị trường mà ở đó chỉ có duy nhất một hãng sản 
xuất, kinh doanh nên sản phẩm hàng hoá đó là duy nhất. Từ đó họ kiểm soát được gián 
bán, nắm chắc được quy luật cung cầu. Ngoài thị trường độc quyền bán còn có thị 
trường độc quyền mua. Thị trường độc quyền mua là thị trường mà ở đó chỉ có duy 
nhất một khách hàng có nhu cầu với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó và họ cũng kiểm 
soát các mỗi quan hệ kinh tế. 
 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là thị trường ở đó có nhiều người mua và bán 
tham gia. Những người này không ai có đủ ưu thế để cung ứng một sản phẩm đủ sức 
chi phối giá cả trên thị trường. Về người mua cũng không ai cỏ thể đủ khả năng để 
mua một số lượng sản phẩm lớn đủ để gây những biến động giá cả. 
 Thị trường độc quyền cạnh tranh: Là thị trường mà ở đó vừa có trạng thái độc 
quyền, vừa có trạng thái cạnh tranh. 
 Trong trường hợp này bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có thể là độc quyền 
hoặc là người cạnh tranh trong cùng một loại sản phẩm nhưng về mặt chất lượng và số 
lượng có khác chút ít. 
b. Căn cứ trên giác độ nhu cầu hàng hoá xuất khẩu có: 
 Thị trường hàng hoá: Là thị trường có đối tượng trao đổi hàng hoá với mục tiêu 
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng về vật chất. 
 Thị trường dịch vụ: Là nơi cung cấp sản phẩm dịch vụ. Thị trường này sử dụng 
kênh phân phối trực tiếp không qua trung gian. 
c. Căn cứ vào mức độ hạn chế xuất khẩu có: 
 Thị trường có hạn ngạch. 
 Thị trường không có hạn ngạch. 
 Hạn ngạch: là quy định của chính phủ về số lượng, chất lượng hàng hoá xuất 
nhập khẩu, giá trị. Việc quy định này được Thủ tướng chính phủ phê duyệt hàng năm. 
mục đích của việc này là đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, bảo hộ 
các ngành sản xuất trong nước. Cho đến nay Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch đối với 
hai loại thị trường hàng hoá là hàng dệt may, gạo xuất khẩu vào thị trường EU và 
Canađa, theo hiệp định song phương. 
d. Căn cứ đặc điểm sản xuất hàng xuất khẩu có: 
 Thị trường xuất khẩu gia công: là thị trường có sự tham gia của hai chủ thể: bên 
gia công và bên nhận gia công. Bên đặt gia công giao toàn bộ hoặc một phần nguyên 
liệu cùng các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật... cho bên nhận gia công, bên nhận gia công 
tiến hành sản xuất và giao thành phẩm cho bên đặt gia công và nhận phí gia công từ 
bên đặt gia công. Đây là một hình thức liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp có quy 
mô, trình độ kỹ thuật và công nghệ khác nhau, phân bổ các địa bàn khác nhau, quốc 
gia khác nhau. Qua đó cùng nhau tạo ra thị trường chung phân định hai mức sản lượng 
cho từng thành viên, giá cả từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi ích kinh tế của nhau, tạo 
ra cho nhau có khoản thu nhập cao nhất. 
 Thị trường xuất khẩu sản phẩm sản xuất: là nơi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá 
được sản xuất bởi các doanh nghiệp. 
e. Căn cứ vào nguồn gốc xuất khẩu. 
 Thị trường xuất khẩu trực tiếp: là thị trường mà ở đó các doanh nghiệp xuất 
nhập khẩu trực tiếp tham gia xuất khẩu và thị trường không phải qua các khâu trung 
gian. ở thị trường này các doanh nghiệp tự nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách 
hàng, thoả thuận giao dịch... ký kết hợp đồng ròi tự khai thác nguồn hàng, sản xuất, giá 
cả, chế biến,... và thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp chịu trách nhiệm đảm bảo hợp 
đồng bằng tài sản của mình. Hiện nay xu hướng xuất nhập khẩu trực tiếp ngày càng 
được mở rộng. 
 Thị trường xuất khẩu gián tiếp: là thị trường mà tại đó các doanh nghiệp xuất 
nhập khẩu phải thông qua khâu trung gia xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này vì lý 
do chủ quan không thể tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, do vậy phải uỷ quyền cho 
doanh nghiệp trung gian thường là những doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất nhập 
khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình và phải trả một khoản thù lao gọi là 
phí uỷ thác. 
f. Căn cứ vào chủ thể nhập khẩu gồm có: 
 Thị trường theo các nước. 
 Thị trường một khu vực. 
 Việc phân chia thị trường theo nước hoặc khu vực căn cứ vào điều kiện địa lý, 
mức thu nhập, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, nhu cầu và thị hiếu của người 
dân... 
 Do đó hình thành nên thị trường Mỹ, Pháp, Đông Nam á, Đông Âu, Nhật... Từ 
sự phân chia này mà các chủ thể xuất khẩu có những chính sách xuất khẩu và biện 
pháp phát triển thị trường thích hợp. 
g. Căn cứ vào quy định của nhà nước gồm có: 
 Thị trường chính ngạch: là thị trường có các sản phẩm xuất khẩu mà việc mua 
bán trao đổi được thực hiện giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc giữa các doanh nghiệp 
xuất nhập khẩu thông qua các hợp đồng mua bán ngoại thương, và việc thanh toán 
diễn ra thông qua các ngân hàng đại diện. 
 Thị trường tiểu ngạch: là thị trường mà ở đoa việc mua bán là trực tiếp có thể 
không qua ký kết hợp đồng theo đúng quy tắc. Tức thị trường có các quy định của nhà 
nước hạn chế về số lượng mặt hàng xuất nhập khẩu, loại hình doanh nghiệp này 
thường đợc thực hiện giữa các quốc gia có chung đường biên giới. Như vậy, thực chất 
của việc mua bán trong thị trường tiểu ngạch là mua bán trao tay, thanh toán trực tiếp 
không cần qua các ngân hàng. 
3. Chức năng của thị trường. 
 Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có bắt nguồn từ 
bản chất của thị trường tới quá trình tái sản xuất và tới đời sống kinh tế xã hội. Trong 
quá trình vận động sản phẩm xã hội từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng, thị trường đã 
thực hiện các chức năng quan trọng sau: 
 a. Chức năng thừa nhận. 
 Trong nền kinh tế thị trường hầu hết các sản phẩm hàng hoá dịch vụ sản xuất ra 
đều được đem trao đổi buôn bán trên thị trường. Việc hàng hoá bán ra được là nhờ 
chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp 
nhận mua hàng và do đó hàng hoá bán được và như vậy có thể nói về cơ bản quá trình 
tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Do đó, thị trường là là nơi để doanh 
nghiệp thể hiện khả năng cạnh tranh của mình và qua sự cạnh tranh đó doanh nghiệp 
thấy rõ mình có thể đứng vững hay thất bại. Và cũng nhìn vào đó doanh nghiệp sẽ 
quyết định được loại hàng hoá mà mình sẽ kinh doanh. Nói cho cùng đây cũng là thể 
hiện chức năng thừa nhận của thị trường thông qua tác động của doanh nghiệp. 
 b. Chức năng thực hiện. 
 Thị trường chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ. Nói 
một cách khác, thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện cân bằng 
cung càu của từng hàng hoá, thực hiện giá trị hàng hoá thông qua giá cả, thực hiện việc 
trao đổi thông qua giá trị. Người bán cần giá trị hàng hoá, người mua cần giá trị sử 
dụng của hàng hoá. Nhưng trình tự thì sự thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi nào thực 
hiện được giá trị sử dụng, bởi vì hàng hoá hoặc dịch vụ nào dù là được tạo ra với chi 
phí thấp nhưng không phù hợp với nhu cầu thị trường và xã hội thì cũng không thể tiêu 
thụ hoặc bán được. Như vậy, thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng 
hoá và dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân 
phối các nguồn lực. 
 c. Chức năng điều tiết. 
 Nhu cầu thị trường là mục tiêu của quá trình sản xuất. Thị trường là tập hợp các 
hoạt động của quy luẩ kinh tế của thị trường. Nói cách khác, thị trường có chức điều 
tiết khích thích sản xuất xã hội, chức năng này của thị trường được thể hiện ở chỗ: 
 Thông qua nhu cầu thị trường các doanh nghiệp, các nhà sản xuất bằng nghệ 
thuật của mình lựa chọn được sản phẩm thích hợp để sản xuất, tìm được nơi tiêu thụ 
hàng hoá và dịch vụ nhằm đạt được lợi nhuận cao, đồng thời củng cố được địa vị của 
mình và tăng cường sức cạnh tranh. Hơn nữa sự điều tiết kích thích của thị trường còn 
được thể hiện ở chỗ: Thị trường chỉ thừa nhận những sản phẩm có chi phí sản xuất 
thấp, chi phí lưu thông thấp hoặc ở mức trung bình do vậy khuyến khích các doanh 
nghiệp cải tiến sản xuất, giảm chi phí tới mức thấp nhất. 
 Thông qua thị trường, người tiêu dùng hay người mua có thể lựa chọn hàng hoá 
dịch vụ đáp ứng được nhiều nhất nhu cầu của mình và giá cả thấp nhất. Nói cách khác, 
thị trường cho phép người tiêu dùng mua được những hàng hoá dịch vụ có lợi nhất cho 
mình. 
 Như vậy thị trường vừa kích thích người sản xuất sử dụng hợp lý các nguồn lực 
của mình, vừa kích thích người tiêu dùng sử dụng có hiệu quả ngân sách của mình. 
 d. Chức năng thông tin. 
 Thị trường thực hiện chức năng cung cấp thông tin về nhu cầu thị trường, về thị 
trường, về tổng số cung cầu, thị hiéu khách hàng quan hệ cung- cầu của từng loại hàng 
hoá, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, các điều kiện tìm kiếm nguồn đầu vào, các đơn vị 
sản xuất và phân phối cho người mua và người bán. Thông qua đó các doanh nghiệp 
có thể trả lời các câu hỏi về thị trường mục tiêu, về dung lượng thị trường, thị trường 
cạnh tranh. 
 Tóm lại thị trường cung cấp những thông tin hết sức cần thiết đối với người sản 
xuất, người tiêu dùng để họ có thể đưa ra những quyết định thích hợp đem lại lợi ích 
hay hiệu quả cho mình. 
 Xuất phát từ những chức năng trên, có thể rút ra một số vai trò cơ bản của thị 
trường: 
4. Vai trò của thị trường. 
 Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế dù là loại 
hình nào: quốc doanh, tập thể, tư nhân... đều là những chủ thể của sản xuất (hàng hoá) 
kinh doanh hàng hoá, tồn tại trong một hệ thống nhất như một cơ thể sống vận động 
trên thị trường lấy thị trường làm môi trường như mảnh đất nuôi sống doanh nghiệp. 
Trên thị trường các doanh nghiệp đều có tư cách pháp nhân và bình đẳng các quan hệ 
hợp tác cho phép các doanh nghiệp tìm kiến tất cả các bạn hàng phù hợp với doanh 
nghiệp của mình. Doanh nghiệp với tư cách là người sản xuất, kinh doanh hàng hoá 
tham gia thị trường sẽ làm thay đổi toàn bộ các quan hệ kinh tế các quan hệ ngang sẽ 
làm xuất hiện nhiều nhân tố mới. Mỗi doanh nghiệp sẽ cần đến nhiều loại vật tư hàng 
hoá, cần đến chất xám, do đó thúc đẩy các ngành sản xuất vật tư và các ngành kỹ thuật 
phát triển đòi hỏi của thị trường ngày cao và càng nhiều loại hàng hoá với chủng loại 
kích cỡ khác như sẽ thúc đẩy sự ra đời của các ngành sản xuất kinh tế mới. Mọi hoạt 
động của doanh nghiệp đều gắn bó với thị trường, sản phẩm của doanh nghiệp có bán 
được trên thị trường thì mới có thể bù đắp được chi phíq và thu được lợi nhuận. Thị 
trường là nơi đánh giá mọi hoạt động của doanh nghiệp một cách khách quan và chính 
xác. Vì vậy, vai trò của thị trường đối với doanh nghiệp được thể hiện là: 
 Một là: Thị trường là sống còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng 
hoá. 
 Doanh nghiệp khi chiếm lĩnh được những thị phần mới là họ đã phát triển cả về 
chiều rộng lẫn chiều sâu, mọi hoạt động kinh doanh cũng phát triển theo và khả năng 
thu lợi nhuận sẽ tăng lên. 
 Doanh nghiệp khi mất đi thị phần sẽ gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh 
sẽ bị thu hẹp. Nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời thì nguy cơ phá sả là điều 
không thể tránh khỏi. 
 Hai là: Thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên tự cấp tự túc để tạo thành 
thể thống nhất trong toàn nền kinh tế quốc dân. 
 Tác động của các quy luật thị trường đó làm cho cho hàng hoá lưu thông tự do 
từ nơi có hàng đến nơi có nhu cầu. Dù có sự ngăn sống cấm chợ khi có lợi nhuận nó 
cũng vượt qua. Và khi nền kinh tế hàng hoá xuất hiện thì hàng rào nào cũng sẽ tự biến 
mất. Thị trường là môi trường đồng thời cũng là s