Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng, các nghiệp vụ lại phức
tạp và luôn thay đổi theo sự thay đổi của nền kinh tế. Do tập quán và luật pháp của
mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau nên quan niệm về NHTM cũng không có sự thống
nhất song có thể hình dung NHTM là một trong những ngành dịch vụ lâu đời nhất, là
tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện đồng thời cả ba nhệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi,
cho vay và thanh toán trung gian cho các khách hàng. Tầm quan trọng của NHTM có
thể được minh họa một cách chi tiết qua các chức năng cơ bản của nó(chức năng tạo
tiền, chức năng thanh toán, chức năng bảo quản và cất trữ, )
Theo Luật các tổ chức Tín dụng của Việt Nam(được sửa đổi bổ sung năm
2004) thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển,
ngân hàng đầu tư, ngân hàngchính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân
hàng khác”. [Luật các tổ chức Tín dụng].
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán” [Luật các tổ chức Tín dụng].
Nếu xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp thì NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
104 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực tại sàn giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
TIỂU LUẬN:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC TẠI SGD
NHNo & PTNN VN NNo&PTNT VN
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM:
1.1.1.Khái niệm, chức năng và vai trò của NHTM trong nên kinh tế thị
trường:
*. Khái niệm ngân hàng thương mại:
Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng, các nghiệp vụ lại phức
tạp và luôn thay đổi theo sự thay đổi của nền kinh tế. Do tập quán và luật pháp của
mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau nên quan niệm về NHTM cũng không có sự thống
nhất song có thể hình dung NHTM là một trong những ngành dịch vụ lâu đời nhất, là
tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện đồng thời cả ba nhệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi,
cho vay và thanh toán trung gian cho các khách hàng. Tầm quan trọng của NHTM có
thể được minh họa một cách chi tiết qua các chức năng cơ bản của nó(chức năng tạo
tiền, chức năng thanh toán, chức năng bảo quản và cất trữ,…)
Theo Luật các tổ chức Tín dụng của Việt Nam(được sửa đổi bổ sung năm
2004) thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển,
ngân hàng đầu tư, ngân hàngchính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân
hàng khác”. [Luật các tổ chức Tín dụng].
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán” [Luật các tổ chức Tín dụng].
Nếu xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp thì NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
*.Vai trò của NHTM trong nền kinh tế:
Về lý thuyết, các NHTM là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay,nhưng trên thực
tế ngân hàng thực hiện nhiều nghiệp vụ để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiền tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia
đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để
đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàngthực hiện thanh toán cho việc
mua hàng hóa và dịch vụ(như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
- Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàngmất
khả năng thanh toán(chẳng hạn phát hành thư tín dụng)
- Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàngquản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán(thường được thực hiện tại phòng ủy thác).
- Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính
phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội
1.1.2. Nguồn nhân lực NHTM:
1.1.2.1. Khái niệm nguồn nhân lực ngân hàng thương mại:
*. Khái niệm nguồn nhân lực:
Nói một cách đơn giản, nhân lực được hiểu bao gồm thể lực và trí lực. Bất cứ
một tổ chức nào cũng được cấu thành bởi các thành viên là những con người khác
nhau. Đó là một tập thể các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau
theo một mục tiêu chung nhất định.
Việc xem xét yếu tố con người với tư cách là nguồn lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội đã hình thành khái niệm mới về nguồn nhân lực. Hiểu đúng và đầy đủ về
nguồn nhân lực thì tùy theo cách tiếp cận khác nhau sẽ cho ta nhiều khái niệm khác
nhau. Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đã đặt ra, chuyên đề tập trung nghiên cứu
trên 2 góc độ:
- Trên phương diện tăng trưởng kinh tế, yếu tố con người được đề cập đến với
tư cách là là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hóa, dịch
vụ. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản nhất của
xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động theo yêu cầu của nền
kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ.
- Trên phương diện khía cạnh về vốn: Con người được xem xét trước hết như
một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương diện để phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, lí luận về vốn con người còn xem xét con người từ quan điểm nhu cầu về
các nguồn cho sự phát triển kinh tế. Đầu tư cho con người được phân tích với tính
chất là sự “tư bản hóa các phúc lợi” tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất có
tính đến tổng hiệu quả các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được
từ các nhà đầu tư đóNguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu
dưới nhiều khía cạnh. Trước hết, với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã.
Cách tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay.
Theo cách nghiên cứu trên, ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là
toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp..) mà mỗi các nhân sở hữu.
Nguồn nhân lực được xem như một nguồn vốn bên cạnh những nguồn vốn vật chất
khác như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên thiên nhiên…đầu tư cho con người, giữ
vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển
bền vững.
Cũng trên cơ sở nghiên cứu trên, Liên hiệp quốc(UNO) đưa ra khái niệm
nguồn nhân lưc là tất cả các kiến thức, kỹ năng, năng lực của con người có quan hệ
tới sự phát triển của đất nước. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu hạ tầng xã
hội – kinh tế.
Trong chương trình KH – CN cấp nhà nước, “con người Việt Nam – mục tiêu
và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội”, Mã số KX – 07 thì đưa ra khái niệm:
Nguồn nhân lực được hiểu là số dân và trách nhiệm con người, bao gồm cả thể chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm
việc.
Trong bài phát biểu khi gặp các nhà doanh nghiệp và các nhà khoa học công
nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: “ Nguồn
lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ, tinh thần gắn với truyền thống của
dân tộc ta.
Từ những quan niệm nêu trên, rút ra: Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là
lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà đó là cả một tập hợp đa phức gồm nhiều yếu tố
như trí tuệ, sức lực, kĩ năng, phong cách nghề nghiệp… gắn với sự tác động của môi
trường đối với lực lượng lao động đó.
*. Nguồn nhân lực NHTM :
Theo cách tiếp cận trên thì nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại là tất cả
vốn người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…của tất cả những thành
viên trong NHTM, bao gồm cả những cán bộ quản lý của Ngân hàng và các cán bộ,
nhân viên thực thi các nghiệp vụ Ngân hàng, cũng như những nhân viên ở các bộ
phận khác trong NHTM: lễ tân, phục vụ…
1.1.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực NHTM:
Dựa trên đặc thù ngành kinh doanh hàng hóa đặc biệt là tiền tệ và dịch vụ tài
chính, nguồn nhân lực của NHTM có đặc điểm chung như sau:
- Về mặt bằng kiến thức: do hoạt động NHTM là cấp tín dụng và đầu tư cho
nền kinh tế nên đòi hỏi cán bộ NHTM phải am hiểu và có kiến thức tổng hợp
cuarnhieeuf chuyên ngành sản xuất kinh doanh, nhiều loại đặc thù quản lý.
- Về năng lực: Nhạy bén, sáng tạo, năng động do xuất phát từ đặc điểm của
kinh doanh hàng hóa đặc thù là tiền tệ.
- Về phong cách: NHTM thực hiện chức năng”đi vay để cho vay”kinh
doanh dựa trên sự “tín nhiệm” nên người cán bộ NHTM cần phải có phong cách
chững chạc, tự tin, quyết đoán, đạo đức tốt, tạo được niềm tin tưởng cho khách hàng
ở cả góc độ là người gửi tiền và các nhà đầu tư vay vốn.
- Dựa trên tiêu thức phân chia theo ngạch quản lý và theo chuyên môn, có
thể xác định đặc điểm về nguồn nhân lực NHTM theo hai nhóm chính sau:
a. Cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ: Đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh
tiền tệ gồm có hai bộ phân chủ yếu:
- Bộ phận đầu não(Trung tâm điều hành, Trụ sở chính): đây là bộ phận có ảnh
hưởng quyết định đến phương hướng hoạt động của NHTM.
- Bộ phân chỉ đạo cơ sở: là bộ phận tác động trực tiếp đến chất lượng kinh
doanh tiền tệ của một Ngân hàng, một chi nhánh Ngân hàng hoặc một tổ chức tín
dụng.
Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ bao gồm những người đảm nhận cá
chức danh:
+ Chủ tịch Hội đồng quản trị: thành viên HĐQT;
+ Tổng Giám đốc(Giám đốc) và các Phó tổng giám đốc(Phó giam đốc)
+ Trưởng, phó các phòng(ban) nghiệp vụ thuộc cơ quan điều hành(cấp trung
ương và trung gian);
Yêu cầu về năng lực chuyên môn:
Tùy thuộc vào từng loại hình Tổ chức tín dung, từng vị trí then chốt trong các
bộ phận nghiệp vụ của một Tổ chức tín dụng mà cán bộ nắm giữ những vị trí này
phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, những yêu cầu chung nhất mà một cán bộ
quản lý kinh doanh tiền tệ cần có.
Loại nhân lực này, với đặc trưng cơ bản nhất đòi hỏi họ là phải nắm bắt tốt
được thời cơ để tổ chức các kế hoạch kinh doanh tiền tệ sao ho có hiệu quả nhất cho
mỗi tổ chức tín dụng và cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ là những người quyết định chất
lượng hoạt động của một Ngân hàng, một tổ chức tín dụng, nên sự thành đạt của mỗi
Ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng trước hết trông chờ vào năng lực chuyên môn của
đội ngũ cán bộ này.
b. Cán bộ nhân viên nghiệp vụ.
Nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ nhân viên nghiệp vụ mang một số đặc
điểm về cơ cấu sau:Nghề nghiệp đa dạng
- Số lượng nghề nghiệp bố trí chủ yếu ở các lĩnh vực kinh doanh trực tiếp.
Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, tuy không phải là lực lượng lãnh đạo và quyết
định đến sự phát triển của mỗi Ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhưng lại chiếm số đông
tuyệt đối trong hệ thống Ngân hàng nên họ chính là động lực của sự phát triển
Cùng với đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ, lực lượng cán bộ làm
công tác nghiệp vụ là những người đã góp phần làm nên sự nghiệp đổi mới ngành
ngân hàng và thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế chung của đất nước.
1.1.2.3.Các loại nhân lực của NHTM:
Trong hoạt động của NHTM cũng như các hoạt động của các tổ chức khác, để
thực hiện thuận tiện cho các công tác về nguồn nhân lực cần phân chia thành các loại
nhân lực theo các tiêu thức khác nhau. Theo tầm quan trọng của các cương vị được
giao cho cá nhân trên cơ sở sử dụng cách phân cấp quản trị, nhân lực NHTM được
chia thành 4 loại.
*. Cán bộ lãnh đạo
Là cấp quản trị cao nhất, là người đứng đầu, là người chỉ huy, có quyền quyết
định chiến lược, định hướng chung cho hoạt động của NHTM, xây dựng và quản lý
các mục tiêu định hướng ngắn hạn và dài hạn cho NHTM.
Về mặt nhân lực: Đưa ra các chương trình phát triển nhân lực: các chíh sách
để sử dụng nhân lực tốt nhất trong các chính sách bao gồm các chính sách về lương
bổng, chính sách về thưởng , phat, kiểm soát hoạt động của nhân viên cấp dưới, giúp
đỡ nhân viên cấp dưới khi cần thiết.
Với vị trí cao nhất, với nhiệm vụ to lớn và nặng nề như trên, những người lãnh
đạo NHTM cần đáp ứng những đòi hỏi nhất định trên nhiều phương diên: Năng lực
nhận thức, năng lực ra quyết đinh, năng lức tổ chức quyết định điều hành, có trình độ
chuyên môn, có kinh nghiệm và thâm niên công tác, có phẩm chất đạo đức tốt.
*.Cán bộ quản trị cấp trung gian
Là những người phụ trách, đứng đầu các bộ phận, các nhóm (phòng, ban,
sở…); trực tiếp chỉ đạo, điều hành, trực tiếp tiếp xúc với nhân viên hàng ngày, giao
công việc cho nhân viên, kiểm tra, đôn đốc động viên nhân viên làm việc thực hiện
nhiệm vụ được ban lãnh đạo giao phó…
Cấp quản lý này có vai trò rất lớn trong quan hệ điều hành, duy trì không khì
làm việc thuận lợi, bố trí công việc hợp lý, kèm cặp nhân viên, chuyển giao kinh
nghiệm cho nhân viên.
Công việc chính của họ phụ trách một phạm vi công việc tương đối lớn và
thường không tách khỏi công việc chuyên môn. Những công việc chính thường bao
gồm: Từ việc ra quyết định chiến thuật và tác nghiệp, xây dựng và trực tiếp chỉ đạo
thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, các mục tiêu cụ thể. Tổ chức tập hơp mọi thành
viên trong đơn vị triển khai thực hiện và hoàn thành các ục tiêu, các chương trình,
các công việc được phân công.
Với vị trí và nhiệm vụ như vậy, cán bộ quản trị cấp trung gian này cũng cần
đạt một số tiêu chuẩn: Có năng lực chuyên môn, có năng lực tổ chức, quản lý điều
hành, có năng lực ra quyết định, có năng lực nhận thức, có kinh nghiệm, phẩm chất
đạo đức.
Nhìn chung khó có thể tách biệt các tiêu chuẩn riêng biệt cho nhà lãnh đạo và
các nhà quản trị cấp trung gian, nhưng luôn có thể nhận định: người lãnh đạo và
những nhà quản trị cấp trung gian đóng vai trò quan trọng trong hệ thống NHTM,
giống như hệ thần kinh của con người, có nhiệm vụ cảm nhận được các phản ứng từ
bên ngoài, thấy được và nghĩ ra được những giải pháp tối ưu để điều khiển các bộ
phận khác trong tổ chức, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Như vậy, đòi hỏi họ phải:
Là những người có kinh nghiệm, có ý chí, có khả năng thực hiện và hướng
dẫn, động viên người khác cùng hoàn thành nhiệm vụ, có bản lĩnh, có hoài bão để
hoàn thành sứ mạng của mình, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, phải biết làm cho
thuộc cấp vừa tuân phục, vừa mến mộ với tư cách tấm gương cho mọi người học tập
noi theo, biết làm cho mọi người hợp tác với nhau dể làm việc, biết nhận ra, biết khai
thác, sử dụng khả năng của cấp dưới, giúp họ ý thức trách nhiệm, để cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ được giao; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
*. Chuyên gia:
Bao gồm tất cả những người được các nhà lãnh đạo sử dụng với tư cách làm
tham mưu, cố vấn, là người đưa ra ý kiến để các cấp lãnh đạo và quản trị với nghĩa là
cấp quản trị trực tuyến lựa chọn và ra quyết định. Những chuyên gia này là những
người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về một số lĩnh vực chuyên môn náo đó.
Các chuyên gia này rất cần cho các cấp quản trị về việc tư vấn cho các cappas
quản trị về các chiến lược lâu dài, cũng như công việc thực tế hàng ngày. Họ có thể
giúp huấn luyện nhân viên, chuyển giao kinh nghiệm cho nhân viên.
Do vậy, đòi hỏi phải đạt một số tiêu chuẩn: có năng lực chuyên môn, kinh
nghiệm và thâm niên trong lĩnh vực chuyên gia, có năng lực nhận thức, có tầm hiểu
biết rộng, có phẩm chất đạo đức
*. Nhân viên:
Là những người thực hiện các công việc cụ thể theo kế hoạch đề ra tuân thủ
mệnh lệnh của các cấp quản trị. Công việc của họ là hoàn thành các phần việc được
giao theo khả năng và kiến thức sẵn có, phối kết hợp với các viên chức khác để hoàn
thành công việc cụ thể.
Loại nhân lực có vai trò quan trọng ở NHTM. Bởi vì, quản trị là hoàn thành
công việc qua người khác. Nghĩa là, lãnh đạo dù có tài giỏi, song nếu không có một
đội ngũ nhân lực giỏi thì cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
Măt khác, so với ba loại nhân lực trên, loại nhân lực này là lực lượng đông
đảo nhất, chiếm đại bộ phận trong lực lượng lao động của NHTM. Họ là những
người trực tiếp thực hiện và giải quyết mọi công việc của NHTM; là người trực tiếp
tiếp xúc với môi trường hoạt động cụ thể. Do đó mục tiêu của NHTM có đạt được
hay không, uy tín cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động này.
Tiêu chuẩn của loại nhân lực này, không đòi hỏi cao như ba loại trên, nhưng
cũng phải đảm bảo: có trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ; tính cách cần thiết
phù hợp với công việc; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong làm việc; ý thức cầu tiến;
phong cách ứng xử; khả năng giao tiếp; phẩm chất đạo đức; các tiêu chuẩn khác phù
hợp từng vị trí lĩnh vực công tác.
1.1.3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM
1.1.3.1.Khái niệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định và chuyên
môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một số công việc
nhất định.Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức chuyên
nghiệp.
Như vậy có thể xem đào tạo nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm giúp
người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
Phát triển nguồn nhân lực( theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập
có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự
thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động.
Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập
được tổ chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các
hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày thậm chí đến vài năm, tuỳ
vào mục tiêu học tập; và nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao
động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp của
họ. Như vậy, xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực bao gồm ba hoạt động là:
giáo dục, đào tạo và phát triển.
- Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người
bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới thích hợp hơn trong
tương lai.
- Đào tạo: (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng): được hiểu là các hoạt động học
tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng,
nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho nguời lao động nắm vững
hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng
của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
- Phát triển: là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước
mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở
những định hướng tương lai của tổ chức.
Như vậy có thể thấy cả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đều là quá trình
trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho nguồn nhân lực của tổ chức. Song
đào tạo và phát triển là không giống nhau, chúng khác nhau ở định hướng, phạm vi,
thời gian và mục đích. Cụ thể, đào tạo định hướng vào hiện tại, tập trung nâng cao kĩ
năng cần thiết, khắc phục những thiếu hụt về mặt kiến thức giúp các cá nhân thực
hiện tốt công việc hiện tại của mình. Đào tạo thực hiện ở phạm vi cá nhân và trong
thời gian ngắn. Phát triển nguồn nhân lực lại chú trọng vào các công việc tương lai
của tổ chức, nó giúp các cá nhân trang bị sẵn những kiến thức, kỹ năng mới cần thiết
trong việc thăng tiến lên chức vụ mới. Phát triển thực hiện ở cả phạm vi cá nhân và tổ
chức, và được tiến hành trong dài hạn Hai hoạt động này phải tiến hành đồng thời đối
với mỗi cá nhân trong tổ chức để khai thác hết hiệu quả của hoạt động này và xây
dựng một đội ngũ NNL chất lượng cao, ổn định cho tổ chức. Hiện nay vai trò và vị trí
của hoạt động này ngày càng quan trọng hơn trong mọi tổ chức.
*. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: Dựa vào khái niệm chung
về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức. Đối với một ngân hàng thương
mại, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhóm chức năng chú trọng đến việc
nâng cao năng lực của cán bộ nhân viên, bảo đảm cho cán bộ nhân viên trong ngân
hàng có các kỹ năng, trình độ chuyên môn cần thiết để hoàn thành tốt những công
việc được giao và tạo điều kiện cho đội ngũ nhân sự phát triển được tối đa các năng
lực cá nhân. Các ngân hàng áp dụng chương trình hướng nghiệp và đào tạo cho nhân
viên mới nhằm xác định năng lực thực tế của nhân viên và giúp nhân viên làm quen
với những công việc của mình. Đồng thời, các NHTM cũng thường lập các kế hoạch
đào tạo, huyến luyện và đào tạo lại nhân viên mỗi khi có sự thay đổi về nhu cầu
nhiệm vụ hoặc quy trình công nghệ, kỹ thuật. Nhóm chức năng đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cho NHTM thường thực hiện các hoạt động như : hướng nghiệp,
huyến luyện, đào tạo kỹ năng thực hành cho lao động: bồi dưỡng nâng cao trìn