Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X, năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm giai đoạn 2006-2010; là năm Hiệp định Thương mại Việt Mỹ sẽ đi vào thực hiện và Việt Nam phấn đấu ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Năm 2006 cũng là năm Tổng Công ty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam chuyển sang hoạt động theo mô hình Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam. Như vậy, môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý sẽ có nhiều nhân tố mới: sức ép giảm giá quốc tế, xu hướng giảm cước các dịch vụ Bưu chính, Viễn thông. Việc mở rộng thị trường và thu hút khách hàng của các doanh nghiệp Bưu chính, Viễn thông sẽ diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn trong sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, tác động đến tình hình sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Bưu chính-Viễn thông nói chung cũng như của Công ty Phát hành báo chí Trung ương nói riêng.
Là một đơn vị trung tâm đầu mối của ngành Bưu chính trong công tác phát hành báo chí, Công ty Phát hành báo chí Trung ương luôn nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm to lớn của mình. Do đó, những người làm công tác phát hành báo chí luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và không ngừng trau dồi kiến thức để đáp ứng những yêu cầu trong tình hình mới.
Trong bối cảnh Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam đi vào hoạt động, Công ty Phát hành Báo chí Trung ương sẽ có vai trò là chủ dịch vụ phát hành báo chí. Với nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển, Công ty Phát hành báo chí Trung ương cần kiện toàn lại cơ cấu bộ máy tổ chức. Muốn phát triển ngày càng lớn mạnh, Công ty phải có bộ máy tổ chức có trình độ, cơ cấu gọn nhẹ, mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với điều kiện hội nhập.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương, qua nghiên cứu thực tế hoạt động sản xuất và bộ máy tổ chức của Công ty, em xin mạnh dạn chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương” .
Bố cục bài viết gồm 3 phần, mỗi phần là một chương và được trình bày như sau:
Chương I: Lý luận chung về cơ cấu tổ chức.
Chương II: Thực trạng cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương.
Chương III: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương.
72 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại công ty phát hành báo chí Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu …………………………………………...........................…..3
Chương I : Lý luận chung về cơ cấu tổ chức………....……...……5
I. Cơ cấu tổ chức………………………………………………..….........5
1. Khái niệm…………………………………………………………..5
2. Các thuộc tính cơ bản của cơ cấu tổ chức………………………….5
2.1. Chuyên môn hoá công việc…………………………………....5
2.2. Các phương thức hình thành bộ phận...…………..……….....6
2.2.1. Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng…………......6
2.2.2. Mô hình tổ chức bộ phận theo sản phẩm……………...8
2.2.3. Mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư…………………9
2.2.4. Mô hình tổ chức bộ phận theo đối tượng khách hàng..10
2.2.5. Mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược…….11
2.2.6. Mô hình tổ chức ma trận ……………………...……..20
2.2.7 Mô hình tổ chức bộ phận theo các dịch vụ hỗ trợ……22
2.2.8. Mô hình tổ chức bộ phận theo quá trình ………….…23
2.3. Mối quan hệ quyền hạn trong tổ chức…………………….. 24
2.4. Cấp quản lý và tầm quản lý...........…………………………..26
2.5. Phân bổ quyền hạn giữa các cấp quản lý……..........…….…27
2.6. Sự phối hợp các bộ phận ………………………..…………...27
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức………………………..28
1. Chiến lược………………………………………………………...28
2. Quy mô của tổ chức và mức độ phức tạp trong hoạt động.............28
3. Công nghệ………………………………………………………...28
4. Thái độ của người lãnh đạo và năng lực của đội ngũ nhân lực…28
5. Môi trường………………………………………………………..29
Chương II: Thực trạng cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành báo chí Trung ương…………………………………………………...30
I. Giới thiệu tổng quan về Công ty…………………………………...30
1. Tên Công ty………………………………………………………30
2. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh…………………………………..30
3. Tiềm năng về vốn, lao động…………………………………........31
4. Quá trình hình thành và phát triển……………………………......34
5. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty……………………………......35
6. Cơ cấu tổ chức……………………………………………………39
II. Thực trạng cơ cấu tổ chức của Công ty Phát hành báo chí Trung ương……………………………………………..…………….…………...45
1. Đánh giá thực trạng cơ cấu tổ chức của Công ty…………………45
2. Ưu điểm và nhược điểm của mô hình tổ chức, nguyên nhân….....55
2.1. Ưu điểm………………………...………………………………55
2.2. Nhược điểm và nguyên nhân…………………..……………...58
Chương III: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí trung ương……………………....61
1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện mô hình cơ cấu tổ chức của Công ty trong thời gian tới……........................……………………….......61
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức của Công ty Phát hành Báo chí Trung ương…………………………………………………….….62
3. Một số điều kiện cần thiết đảm bảo sự thành công trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức của công ty PHBCTW.................................................69
Kết luận…………………………………………………….….……72
Tài liệu tham khảo……….………………. ……………….….….73
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X, năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm giai đoạn 2006-2010; là năm Hiệp định Thương mại Việt Mỹ sẽ đi vào thực hiện và Việt Nam phấn đấu ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Năm 2006 cũng là năm Tổng Công ty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam chuyển sang hoạt động theo mô hình Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam. Như vậy, môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý sẽ có nhiều nhân tố mới: sức ép giảm giá quốc tế, xu hướng giảm cước các dịch vụ Bưu chính, Viễn thông. Việc mở rộng thị trường và thu hút khách hàng của các doanh nghiệp Bưu chính, Viễn thông sẽ diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn trong sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, tác động đến tình hình sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Bưu chính-Viễn thông nói chung cũng như của Công ty Phát hành báo chí Trung ương nói riêng.
Là một đơn vị trung tâm đầu mối của ngành Bưu chính trong công tác phát hành báo chí, Công ty Phát hành báo chí Trung ương luôn nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm to lớn của mình. Do đó, những người làm công tác phát hành báo chí luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và không ngừng trau dồi kiến thức để đáp ứng những yêu cầu trong tình hình mới.
Trong bối cảnh Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam đi vào hoạt động, Công ty Phát hành Báo chí Trung ương sẽ có vai trò là chủ dịch vụ phát hành báo chí. Với nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển, Công ty Phát hành báo chí Trung ương cần kiện toàn lại cơ cấu bộ máy tổ chức. Muốn phát triển ngày càng lớn mạnh, Công ty phải có bộ máy tổ chức có trình độ, cơ cấu gọn nhẹ, mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với điều kiện hội nhập.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương, qua nghiên cứu thực tế hoạt động sản xuất và bộ máy tổ chức của Công ty, em xin mạnh dạn chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương” .
Bố cục bài viết gồm 3 phần, mỗi phần là một chương và được trình bày như sau:
Chương I: Lý luận chung về cơ cấu tổ chức.
Chương II: Thực trạng cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương.
Chương III: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức tại Công ty Phát hành Báo chí Trung ương.
Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã nhận được sự giúp đỡ của cô giáo Th.S Nguyễn Thị Lệ Thuý, Ban Giám Đốc Công ty, phòng Tổ chức-Nhân sự-Hành chính và các cô chú, anh chị trong Công ty.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC.
I. Cơ cấu tổ chức.
1. Khái niệm.
Cơ cấu tổ chức chính thức là tổng hợp các bộ phận ( đơn vị và cá nhân) có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới các mục tiêu đã xác định.
Cơ cấu tổ chức thể hiện cách thức phân công hoạt động của tổ chức giữa các phân hệ, bộ phận và cá nhân. Cơ cấu tổ chức còn thể hiện mối tương quan giữa các hoạt động cụ thể; những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm gắn liền với các cá nhân, bộ phận, phân hệ của tổ chức và tương quan giữa các mối quan hệ quyền lực bên trong tổ chức.
2. Các thuộc tính cơ bản của cơ cấu tổ chức.
Theo tác giả Đoàn Thị Thu Hà và Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2002), khi xem xét một tổ chức thì các yếu tố cơ bản thường được quan tâm và đề cấp đến bao gồm: (1) chuyên môn hoá công việc, (2) phân chia tổ chức theo phương thức hình thành các bộ phận, (3) thuộc tính về mối quan hệ quyền hạn, (4) thuộc tính về cấp quản lý và tầm quản lý, (5) tập trung và phân quyền trong quản lý, và (6) sự phối hợp giữa các bộ phận, phân hệ của cơ cấu.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào xem xét cụ thể từng yếu tố thuộc tính cơ bản của tổ chức.
2.1. Chuyên môn hoá công việc.
Chuyên môn hoá sẽ phân chia công việc ra thành nhiều việc nhỏ, đơn giản, độc lập, nhờ vậy mà mỗi người sẽ dễ dàng chọn cho mình một công việc phù hợp để thực hiện và nhờ đó năng suất lao động được tăng lên rõ rệt.
Bên cạnh đó, chuyên môn hoá cũng có những nhược điểm, đó là sự nhàm chán của người lao động đối với những công việc nhỏ lẻ, tách rời nhau, sự đối địch giữa người lao động.
2.2. Các phương thức hình thành bộ phận.
Các bộ phận trong tổ chức thường mang tính độc lập tương đối, mỗi bộ phận thực hiện những hoạt động nhất định. Cơ cấu của tổ chức thể hiện cách thức hợp nhóm tạo nên các bộ phận, phản ánh quá trình chuyên môn hoá và quản lý tổ chức theo chiều ngang. Việc hợp nhóm các hoạt động tạo điều kiện cho việc mở rộng số thuộc cấp có thể quản lý và mở rộng hoạt động tổ chức.
Trên thực tế, các bộ phận trong tổ chức được hình thành dựa trên những tiêu chí khác nhau, tạo ra các mô hình tổ chức bộ phận khác nhau, cụ thể là: (1) mô hình tổ chức theo chức năng, (2) mô hình tổ chức theo sản phẩm, (3) mô hình tổ chức theo khách hàng, (4) mô hình tổ chức theo địa dư, (5) mô hình tổ chức theo đơn vị chiến lược, (6) mô hình tổ chức ma trận, (7) mô hình tổ chức theo các dịch vụ hỗ trợ, và (8) mô hình tổ chức theo quá trình.
2.2.1. Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng.
Cơ sở của mô hình là các hoạt động trong cùng một lĩnh vực chức năng (như marketing, R&D, sản xuất, tài chính, quản lý nguồn nhân lực…) được hợp nhóm trong cùng một đơn vị cơ cấu. Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trong một giai đoạn phát triển nào đó, khi tổ chức có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động trong một lĩnh vực, đơn sản phẩm, đơn thị trường.
Hình 1: Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng
Ưu điểm của mô hình này là: (1) Đối với các công việc có tính lặp đi lặp lại hàng ngày thì mô hình này có hiệu quả rất cao, (2) đơn giản hoá việc đào tạo, (3) việc kiểm tra của cấp cao rất thuận lợi.
Nhược điểm của mô hình là: (1) thiếu sự phối hợp hành động giữa các phòng ban chức năng, (2) đổ trách nhiệm về vấn đề thực hiện mục tiêu chung của tổ chức cho cấp lãnh đạo cao nhất, (3) chuyên môn hoá quá mức và tạo ra cách nhìn quá hạn hẹp ở các cán bộ quản lý.
2.2.2. Mô hình tổ chức bộ phận theo sản phẩm.
Cơ sở của mô hình là các hoạt động gắn liền với một nhóm sản phẩm và tuyến sản phẩm thì được hợp nhóm vào một bộ phận để thực hiện. Mô hình tổ chức loại này có vai trò quan trọng và ngày càng gia tăng trong các tổ chức quy mô lớn với nhiều dây chuyền công nghệ.
Hình 2: Mô hình hợp nhóm bộ phận theo sản phẩm ở một Cty hoá mỹ phẩm
Ưu điểm của mô hình này là: (1) lợi ích của khách hàng được chú ý nhiều hơn, (2) các phòng ban có sự phối hợp tốt hơn để đạt được mục tiêu chung, (3) các cán bộ quản lý có điều kiện phát triển.
Nhược điểm của mô hình này là: (1) yêu cầu về chất lượng cán bộ quản lý chung tăng lên, (2) dễ dẫn đến sự tranh giành nguồn lực giữa các tuyến, (3) việc kiểm tra của cán bộ cấp trên gặp nhiều khó khăn.
2.2.3. Mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư.
Cơ sở của mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư là việc hành thành bộ phận dựa vào lãnh thổ, các hoạt động trong một khu vực hay địa dư nhất định được hợp nhóm và giao cho một người quản lý, phương thức này khá phổ biến ở các tổ chức hoạt động trên phạm vi địa lý rộng.
Hình 3: Mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư.
Ưu điểm của mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư là: (1) hướng hoạt động vào các thị trường cụ thể, (2) chú ý các vấn đề địa phương, (3) tận dụng được các nguồn lực của địa phương.
Nhược điểm của mô hình là: (1) các hoạt động giống nhau trên diện rộng khó được duy trì, (2) đòi hỏi phải có nhiều cán bộ quản lý, (3) công việc dễ bị trùng lắp, (4) việc ra quyết định trên diện rộng và kiểm tra khó thực hiện.
2.2.4. Mô hình tổ chức bộ phận theo đối tượng khách hàng.
Cơ sở của mô hình tổ chức bộ phận theo đối tượng khách hàng dựa vào những nhu cầu mang đặc trưng riêng của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ.
Hình 4: Mô hình tổ chức bộ phận theo khách hàng ở một Cty thương mại.
Mô hình tổ chức bộ phận theo khách hàng được sử dụng như một mô hình hỗ trợ bổ sung và kết hợp với các mô hình khác.
Ưu điểm của mô hình tổ chức theo khách hàng: (1) tăng khả năng hiểu biết về khách hàng, (2) chú ý hơn tới lợi ích của khách hàng, (3) tạo niềm tin đối với khách hàng.
Nhược điểm của mô hình là: (1) gặp phải khó khăn khi đối tượng khách hàng chưa được xác định từ trước, (2) thiếu sự chuyên môn hoá, (3) dễ xảy ra hiện tượng tranh giành quyền lực.
Các nhược điểm của mô hình này sẽ không bị bộc lộ hết nếu mô hình được dùng để bổ trợ cho các mô hình khác mà không dùng như một mô hình tổ chức chính.
2.2.5. Mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược.
Cơ sở của mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược là tạo nên các đơn vị chiến lược mang tính độc lập cao, có thể tự tiến hành các hoạt động thiết kế, sản xuất và phân phối sản phẩm của mình. Mô hình này được hình thành khi mối quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức đã trở nên quá phức tạp, ngăn cản sự phối hợp.
Hình 5: Mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược ở một trường học.
Về thực chất, mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược là biến thể của các mô hình tổ chức bộ phận theo sản phẩm, địa dư hoặc khách hàng. Các đơn vị chiến lược là những phân hệ độc lập, đảm nhận một hay một số ngành nghề hoạt động khác nhau. Mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược có một đặc trưng cơ bản để phân biệt đơn vị chiến lược với các tổ chức độc lập, đó là người lãnh đạo đơn vị chiến lược phải báo cáo với cấp lãnh đạo cao nhất của tổ chức.
Ưu điểm của mô hình là: (1) đánh giá được vị trí của tổ chức trên thị trường, nhận định đối thủ cạnh tranh và diễn biến của môi trường, (2) kiểm soát trên cơ sở chung thống nhất hoạt động của các trung tâm chiến lược, (3) có những đơn vị đủ độc lập với mục tiêu rõ ràng, cho phép tăng cường phối hợp bằng phương thức giảm thiểu nhu cầu phối hợp.
Nhược điểm của mô hình là: (1) dễ xảy ra tình trạng lợi ích của đơn vị chiến lược lấn át lợi ích của toàn tổ chức, (2) cơ cấu dễ phình to nên chi phí tăng, (3) dễ bị phân tán các chuyên gia trong các đơn vị chiến lược, (4) công tác kiểm soát gặp nhiều khó khăn.
* Cơ cấu tập đoàn là một dạng của mô hình tổ chức theo đơn vị chiến lược.
a) Khái niệm và đặc điểm của tập đoàn kinh tế.
- Khái niệm:
Là một hình thức tổ chức tiên tiến, đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Tập đoàn kinh tế đã trở thành hình thức phổ biến, chi phối trực tiếp và mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vậy nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về tập đoàn kinh tế. Nguyên nhân cơ bản là do có sự khác nhau về phương thức hình thành, nguyên tắc tổ chức, hoạt động và địa vị pháp lý của tập đoàn. Có tập đoàn được hình thành trên cơ sở như một hình thức tổ chức kinh tế lỏng lẻo, ở đó các công ty thành viên ký kết các thoả thuận liên kết kinh tế với nhau để lập lên một tổ chức trong đó có một Công ty mẹ đóng vai trò chi phối chiến lược chung của tập đoàn, nhưng các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập kinh doanh của mình. Có những tập đoàn kinh doanh được thành lập trên cơ sở sáp nhập hoặc thôn tính theo kiểu cá lớn nuốt cá bé hình thành một tổ chức thống nhất, hoạt động theo nguyên tắc “cứng” như một pháp nhân kinh tế. Cũng có những tập đoàn hình thành trên cơ sở các công ty thành viên thoả thuận thành lập một công ty tài chính riêng và công ty này đóng vai trò như một công ty mẹ (Holding Company) chỉ đạo và chi phối hoạt động của các công ty thành viên… Ngoài ra, chúng còn có sự khác nhau trong tư cách pháp nhân của mỗi tập đoàn. Mặc dù có sự khác biệt trong quá trình hình thành, nhưng về cơ bản khi nói tới tập đoàn kinh tế thì phải khẳng định rằng nó là một loại hình tổ chức kinh tế, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, hoạt động trong một hoặc nhiều ngành khác nhau vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, có thể trên một hoặc nhiều nước tuỳ thuộc vào quy mô của tập đoàn. Theo một số nhà nghiên cứu thì: “Tập đoàn kinh tế (Group of Company) là một tổ hợp các công ty độc lập về mặt pháp lý nhưng tạo thành một tập đoàn gồm một Công ty mẹ (Holding Company) và một hay nhiều công ty hoặc chi nhánh góp vốn cổ phần, chịu sự kiểm soát của Công ty mẹ”.
Mặc dù còn nhiều ý kiến chưa thống nhất nhưng có thể đưa ra một khái niệm chung về tập đoàn kinh tế như sau: “ Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các Công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau, trong phạm vi một nước hay nhiều nước. Trong đó có một Công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh tế là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận”
Nghiên cứu một số tập đoàn kinh tế trên thế giới ta thấy chúng có các đặc điểm chung cơ bản như sau:
- Về quy mô: Tập đoàn kinh tế có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. Nhiều tập đoàn kinh tế có phạm vi hoạt động, có các chi nhánh không chỉ nằm trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn của một quốc gia mà còn ở nhiều quốc gia hoặc trên phạm vi toàn cầu.
- Về cấu trúc và tổ chức: Tập đoàn là một tổ hợp các công ty bao gồm Công ty mẹ và các công ty con, cháu (phần lớn mang họ của Công ty mẹ). Công ty mẹ sở hữu phần lớn số lượng vốn cổ phần trong các công ty con, cháu và chi phối chúng về mặt tài chính, chiến lược phát triển; tạo thành một khối cấu trúc như các vệ tinh xoay quanh hạt nhân. Đồng thời do trình độ phát triển cao của thị trường tài chính, các công ty con cũng nắm giữ cổ phiếu của nhau và chi phối nhau tạo nên sự phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau.
Như vậy, sở hữu vốn của tập đoàn kinh tế là sở hữu hỗn hợp nhưng sẽ có một chủ là Công ty mẹ đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính của tập đoàn. Dạng phổ biến của tập đoàn kinh tế là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và nhìn chung các công ty con, cháu vẫn có tư cách pháp nhân.
- Tập đoàn kinh tế chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực: Mỗi tập đoàn kinh doanh đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực kinh doanh đặc trưng mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất thường có các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thương mại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học và đào tạo… Ngày càng được chú trọng đầu tư và coi là đòn bẩy cho sự phát triển của toàn tập đoàn.
b) Tính tất yếu của việc thành lập tập đoàn kinh tế và vai trò của tập đoàn kinh tế.
* Tính tất yếu khách quan:
Sở dĩ tập đoàn kinh tế ra đời và phát triển không ngừng vì nó phù hợp với các quy luật khách quan và những xu thế phát triển của thời đại:
Thứ nhất, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, đến quy mô sản xuất và tiêu thụ. Sản xuất kinh doanh không còn mang tính chất manh mún, rời rạc nữa mà quy mô sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đã trở nên rất lớn. Sở hữu trong doanh nghiệp không chỉ là sở hữu cá thể nữa mà đã trở thành sở hữu hỗn hợp. Tập đoàn kinh tế với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế đáp ứng được các yêu cầu về sản xuất lớn, đa ngành nghề, đa quan hệ sở hữu, kinh doanh đa lãnh thổ… Nó là hình thức biểu hiện của một quan hệ sản xuất cần phải được tạo ra cho phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển.
Thứ hai, quy luật tích tụ và tập trung vốn, sản phẩm.
Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải tồn tại, phát triển trong cạnh tranh, do đó phải tái sản xuất mở rộng không ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ, tập trung vốn vào sản xuất. Trong quá trình này hoặc doanh nghiệp tích luỹ vốn từ lợi nhuận, đi vay, liên doanh liên kết, kinh doanh cổ phần hoặc doanh nghiệp mạnh, lớn thôn tính, sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ. Trong quá trình vận động khách quan đó, tập đoàn kinh tế được ra đời và phát triển.
Ba là, quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của kinh tế thị trường. Trong quá trình vận động các doanh nghiệp luôn luôn cạnh tranh với nhau, dẫn đến hai xu hướng chính: Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính luôn các doanh nghiệp thất bại, dẫn đến việc tập trung hoá sản xuất và vốn lại càng cao hơn. Nếu cạnh tranh quá lâu mà không thắng nổi nhau thì các doanh nghiệp thường tìm cách liên kết với nhau để tăng khả năng cạnh tranh hơn nữa. Tất cả những cách trên đều dẫn đến thành lập tập đoàn kinh tế.
Bốn là, tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Muốn cạnh tranh thắng lợi cần phải có sức mạnh về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Những doanh nghiệp nhỏ lẻ, manh mún thường không đủ khả năng về con người để nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cũng không đủ khả năng về vốn để mua công nghệ, áp dụng vào sản xuất. Vậy chỉ có con đường duy nhất là phải thành lập tập đoàn kinh tế đủ nhân lực, vật lực để có thể nắm được khoa học công nghệ và ứng dụng nó vào sản xuất, đảm bảo sự thành công cho doanh nghiệp trong thương trường.
* Vai trò và ý nghĩa của tập đoàn kinh tế:
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế có ý nghĩa lớn trong lịch sử phát triển kinh tế của nhân l