Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21
làm tăng năng suất lao động, đời sống vật chất của con người được đáp ứng đầy đủ, trong khi thời
gian lao động giảm bớt. Ngày càng có nhiều người thường xuyên rời khỏi nơi cư trú của mình để
đến một nơi khác, để hòa mình vào thiên nhiên, khám phá những điều mới lạ, để phục hồi sức khỏe
hay chỉ để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức món ngon, vật lạ Tất cả những điều này góp
phần thúc đẩy nhu cầu về đời sống tinh thần của con người, trong đó du lịch trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống văn hóa – xã hội. Ngành du lịch được xem là ngành công nghiệp
không khói được đa số các nước trong khu vực và trên thế giới quan tâm phát triển từ rất sớm. Nhận
thức được tiềm năng to lớn của nó, Việt Nam đã và đang đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển du lịch,
nhất là trong những năm gần đây, dẫn đến hệ quả nhu cầu lao động trong ngành du lịch tăng cao.
Đây là cơ hội và cũng là thách thức cho những người quan tâm, yêu thích và muốn thử thách mình
trong một ngành công nghiệp khá mới mẻ ở Việt Nam.
103 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3194 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ THANH TRÀ
MỘT SỐ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA
HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS Hoàng Tâm Sơn
TP.HỒ CH1 MINH, 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc đến:
PGS.TS Hoàng Tâm Sơn – người hướng dẫn khoa học, đã luôn tận tình hướng dẫn, gắn bó,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho toàn thể học viên lớp cao học
tâm lý K18.
Xin gửi lời cảm ơn đến:
Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Du lịch trường Đại học dân lập Văn Lang;
Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Du lịch trường Đại học Tôn Đức Thắng;
Ban Giám đốc công ty du lịch Nam Long, Sai Gon Tourist, Fiditour, Lửa Việt và Tavitour;
Cùng các bạn sinh viên đang học tập tại hai trường đại học trên;
đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng chúng tôi trong quá trình thực hiện đề
tài, góp phần quan trọng để đề tài nghiên cứu triển khai có kết quả.
Tôi xin gửi lời cảm ơn các Anh, Chị, Bạn bè cùng khóa học; đồng nghiệp; người thân và gia đình
đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình thực hiện luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2010
Trần Thị Thanh Trà
DANH MỤC
CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL&ĐT : Cán bộ quản lý và đào tạo
ĐLC : Độ lệch chuẩn
HD : Hướng dẫn
HDV : Hướng dẫn viên
HDVDL : Hướng dẫn viên du lịch
P : Mức ý nghĩa
PC : Phẩm chất
PCTL : Phẩm chất tâm lý
SV : Sinh viên
TB : Trung bình
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21
làm tăng năng suất lao động, đời sống vật chất của con người được đáp ứng đầy đủ, trong khi thời
gian lao động giảm bớt. Ngày càng có nhiều người thường xuyên rời khỏi nơi cư trú của mình để
đến một nơi khác, để hòa mình vào thiên nhiên, khám phá những điều mới lạ, để phục hồi sức khỏe
hay chỉ để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức món ngon, vật lạ Tất cả những điều này góp
phần thúc đẩy nhu cầu về đời sống tinh thần của con người, trong đó du lịch trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống văn hóa – xã hội. Ngành du lịch được xem là ngành công nghiệp
không khói được đa số các nước trong khu vực và trên thế giới quan tâm phát triển từ rất sớm. Nhận
thức được tiềm năng to lớn của nó, Việt Nam đã và đang đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển du lịch,
nhất là trong những năm gần đây, dẫn đến hệ quả nhu cầu lao động trong ngành du lịch tăng cao.
Đây là cơ hội và cũng là thách thức cho những người quan tâm, yêu thích và muốn thử thách mình
trong một ngành công nghiệp khá mới mẻ ở Việt Nam.
Nước ta lại đang trong thời kỳ xây dựng và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp văn minh, hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập tổ
chức Thương mại quốc tế WTO vào ngày 7 tháng 11 năm 2006 đã mở ra cơ hội mở rộng thị trường,
thu hút đầu tư, tranh thủ công nghệ để phát triển và nhất là thay đổi bộ mặt, cách nhìn của bạn bè
quốc tế về đất nước và con người Việt Nam. Thông qua du lịch và hoạt động du lịch, chúng ta sẽ
phần nào làm được điều đó.
Bên cạnh đó, khoa học tâm lý cũng đã chỉ ra rằng, bất kỳ hoạt động nào của con người muốn
đạt hiệu quả cao cũng đòi hỏi chủ thể có những phẩm chất tương ứng đáp ứng yêu cầu của hoạt
động đó, nhất là với những hoạt động có tính chất chuyên môn. Hoạt động du lịch cũng vậy.
Trong hoạt động du lịch, vai trò của HDVDL là rất cần thiết. Đó là những “sứ giả văn hóa”
dưới mắt du khách trong, ngoài nước. Đó là những đại diện cho tổ chức du lịch trực tiếp điều hành,
hướng dẫn, phục vụ du khách trong các chuyến tham quan du lịch. Chất lượng trong chuyến du lịch
thế nào, sản phẩm du lịch thế nào, hình ảnh của công ty du lịch đối với khách hàng ra saotùy
thuộc rất nhiều vào khả năng lao động của HDVDL.
Hoạt động của HDVDL có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp tới hình ảnh, con người, phong tục,
tập quán và văn hóa địa phương; hoạt động này được coi là một loại nghề đặc biệt có yêu cầu với
chủ thể về những PCTL để vừa hoàn thành được những nhiệm vụ đặt ra, vừa thực hiện tốt những kỹ
năng nghề nghiệp, vừa để khắc phục những hiện tượng tâm lý tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình
hoạt động. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định những PCTL cơ bản của HDVDL có ý nghĩa hết
sức quan trọng để làm cơ sở cho việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn lực HDV.
Nếu HDV không đảm bảo được những PC mà nghề đòi hỏi – nhất là những PCTL - thì hiệu quả
hoạt động nghề sẽ hạn chế, tình hình HDV không có kiến thức, không có trình độ, không có kỹ
năng, không có năng lựcngày càng nhiều, dẫn đến sản phẩm du lịch mà chúng ta tạo đang cố
gắng tạo ra hoàn toàn vô nghĩa.
Trong thực tiễn, ngày càng nhiều ý kiến cho rằng muốn trở thành HDVDL chỉ cần có khả
năng nói lưu loát, có ngoại hình, có khả năng sử dụng trình độ ngoại ngữ ở một phạm vi nào đó, biết
cười liên tục là có thể làm HD. Và thực tế, không ít HDV như vậy. Ngoài việc thiếu hiểu biết,
thiếu kiến thức chuyên môn về nghề nghiệp, một số HDV dễ dàng bị lôi kéo, dụ dỗ vào các tệ nạn
xã hội, làm mất tư cách, đạo đức của HDV nói riêng và hình ảnh đại diện của đất nước nói chung.
Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu đề tài: “Một số phẩm
chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch” là hết sức cần thiết, vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa
có gía trị thực tiễn. Nghiên cứu này góp phần đáp ứng nhu cầu hiện nay về việc tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển đội ngũ HDVDL có đầy đủ PCTL cơ bản về nghề nghiệp, đạo đức, tác phong
trong công cuộc xây dựng hình ảnh, quảng bá về đất nước và con người Việt Nam ra thị trường thế
giới cùng với sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp không khói.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn làm rõ các PCTL cơ bản
cần có của HDVDL. Từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm định hướng và phát triển những PCTL cơ
bản phù hợp với nghề, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HDVDL.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số PCTL cơ bản của HDVDL.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên các nhóm:
- Hướng dẫn viên du lịch đang công tác tại các công ty lữ hành.
- Khách du lịch.
- Sinh viên năm thứ tư thuộc chuyên ngành HD đang học tập tại trường ĐH Tôn Đức Thắng và
ĐHDL Văn Lang.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
4.2. Nghiên cứu thực trạng một số phẩm chất tâm lý cơ bản của HDVDL và các yếu tố ảnh hưởng
tới sự hình thành, phát triển các PCTL của họ.
4.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc rèn luyện và phát triển PCTL cơ bản theo yêu
cầu của ngành nghề hiện tại.
5. Giả thuyết nghiên cứu
5.1. Không phải tất cả các PCTL cần có theo yêu cầu của ngành nghề hiện nay đều là những
PCTL cơ bản của HDVDL.
5.2. Không có sự khác biệt giữa các nhóm khách thể khi lựa chọn những PCTL cơ bản cần có của
HDVDL.
6. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về PCTL cơ bản của người HDVDL và tìm ra những giải pháp hợp lý
để nâng cao việc rèn luyện và phát triển những PCTL của HDVDL.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: sử dụng các phương pháp đọc, phân tích, khái quát
các tài liệu văn bản nhằm nhằm xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề cần nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng các phương pháp:
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi với mẫu điều tra là 300 cho 3 nhóm khách
thể nghiên cứu: SV, HDVDL, KDL.
7.2.2. Phương pháp quan sát.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: dành cho nhóm Cán bộ quản lý và Đào tạo
7.3 Phương pháp xử lý số liệu thống kê bằng phần mền SPSS for Windows 11.5 .
8. Đóng góp mới của đề tài
8.1. Về mặt lý luận: Dựa trên việc tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận của tâm lý học hiện đại
về PCTL nói chung tìm ra được những PCTL cơ bản của HDVDL.
8.2. Về thực tiễn: Dựa trên việc nghiên cứu thực tiễn sẽ định hình được PCTL cơ bản, cần thiết
cho HDVDL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HDVDL.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi xuất hiện sự phân công lao động cũng đồng thời xuất hiện những đòi hỏi khác nhau đối
với những chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực của sự phân công đó. Cùng với sự phát triển của xã
hội, sự phân công lao động mang tính chuyên môn hóa ngày càng cao và nó cũng được nghiên cứu
khi phân công lao động xã hội đã xác định những loại hình nghề nghiệp.
Nhằm phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả lao động của con người, hợp lý hóa quá trình sản xuất và
tiết kiệm trong đào tạo nghề, đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu vấn đề PCTL trên
những bình diện khác nhau.
1.1.1. Phẩm chất tâm lý qua nghiên cứu của các tác giả nước ngoài.
Ngay từ thời Cổ đại, triết gia Arixtốt (384 – 322 TCN) đã có quan niệm về “phẩm hạnh” của
giới thượng đẳng; nội dung của phẩm hạnh là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi, Người có
phẩm hạnh sẽ thu hút, điều khiển được người khác và họ đều cao thượng, đáng kính. Ngay cả việc
tuyển chọn người vào phục vụ trong cung đình phải trải qua sự tuyển chọn cực kỳ khắt khe về kỹ
năng lao động, về sự phục tùng, tính nhẫn nhục chịu đựng, lòng dũng cảm, tinh thần khắc phục khó
khăn.
Các triết gia Trung hoa Cổ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng đã có những quan
niệm về “trí” và “đức” của người “quân tử”. Khổng Tử cho rằng, người quân tử phải “trên thông
thiên văn, dưới tường địa lý”, lấy chữ “đức” làm trọng, thu phục nhân tâm làm việc lớn, lòng dạ
ngay thẳng, đức độ khoan dung.
Kể cả khi tham mưu trong việc tuyển chọn chức sắc tham gia việc triều chính, Gia Cát Lượng đã
thông qua một số tiêu chí, trong đó PCTL được xem là vấn đề cơ bản để tuyển chọn: hỏi lẽ thị phi
để xem chí hướng, hỏi mưu kế để xem sự nhận thức, nói trước tai họa để xem sự dũng cảm, làm cho
say rượu để xem tính tình, cân bằng lợi lộc để xem sự liêm khiết, đặt kỳ hạn công việc để xem xét
chữ tín[ 30,tr.10].
Năm 1983, nhà TLH người Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách để phục vụ cho
việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà TLH người Mỹ F.Parsons cũng đã dùng test và bảng hỏi anket để
nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng nghiệp.
Ở Liên Xô (trước đây), từ những năm 20 của thế kỷ 20, việc nghiên cứu tâm lý phục vụ cho
tuyển chọn, tư vấn và đào tạo nghề đã được chú trọng. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên
nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ hướng nghiệp được thành lập trong viện nghiên cứu lao
động trung ương và tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Matxcơva, nhiều nhà
TLH nổi tiếng như: K.K. Platônôv, G.G.Gôlubev, E.A.Climov, V.I.Segurovađã đi sâu nghiên cứu
về xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là PC quyết định hiệu quả hoạt động nghề.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về phẩm chất nghề nghiệp và sự phát triển nghề cũng đã có nhiều
tác giả quan tâm, nghiên cứu trong các công trình như: R.Parsons (1942), I.C.Diggory (1966),
I.G.Bachman (1977). Các nghiên cứu đã phát hiện ra một số kỹ năng nghề nghiệp và sự hình thành
phát triển những kỹ năng đó trong quá trình lao động. Họ đã đưa ra những tiêu chí đánh giá người
lao động trong đó đặc biệt là các kỹ năng lao động. Trên cơ sở đó để tuyển chọn và huấn luyện
người lao động đem lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận cho các nhà tư bản.
Một số tác giả khác khi nghiên cứu sự hình thành nghề và PCTL của nghề đã chú trọng đến
mặt động cơ (R.A.Roe 1914) hay đặc điểm quá trình nhận thức về nghề ở cá nhân (D.E.Super
1958).
Nhà TLH R.M.Stogdill đã nghiên cứu sâu về những PC của người lãnh đạo và xác định
người lãnh đạo cần có 5 đặc điểm về thể chất (chiều cao, ngoại hình, sức khỏe,), 4 đặc điểm về tri
thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc điểm về xã hội và 6 đặc điểm tính cách Ông cho rằng, từng
đặc điểm riêng lẽ có thể không có ý nghĩa, nhưng một nhóm đặc điểm thì liên quan rất chặt chẽ với
sự thành công. Stogdill khẳng định rằng: “có một mối tương quan nhất định giữa các đặc điểm về sự
thông minh, uyên bác, đáng tin cậy, trách nhiệm, sự tham gia xã hội, và địa vị kinh tế - xã hội của
người lãnh đạo so với người không phải là lãnh đạo” [30, tr.11].
Tác giả Ph.N.Gônôbôlin với công trình “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” đã
nêu lên các PCTL phù hợp với công việc giảng dạy và giáo dục học sinh. Đó là các PC như: đạo
đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, hoạt động trí tuệ, tình cảm, PC ý chí [13].
Tóm lại, qua các nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài cho thấy vấn đề PCTL trong hoạt
động nghề từ lâu đã được khá nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những đặc
điểm của hoạt động, từ yêu cầu của công việc đòi hỏi ở chủ thể phải có những PCTL để đáp ứng.
Đồng thời chính trong hoạt động lại là điều kiện để hình thành và phát triển những PCTL mà hoạt
động đó đòi hỏi. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PCTL trong hoạt động
nghề nói chung đã cung cấp những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi định hướng trong quá trình
nghiên cứu của mình.
1.1.2. Phẩm chất tâm lý qua nghiên cứu của các tác giả trong nước.
Ở Việt Nam, từ lâu cha ông ta cũng đã rất chú ý tới những PCTL trong sử dụng người:
Trong “binh thư yếu lược”, vị anh hùng dân tộc – nhà quân sự kiệt xuất – Trần Quốc Tuấn đã
nêu 8 phương pháp để chọn người làm tướng, 8 phương pháp đó nhằm xác định những PCTL là: sự
linh hoạt (biến hóa), khả năng diễn đạt, lòng trung thành, tư cách đạo đức (đức hạnh), tính liêm
khiết (thanh liêm), tác phong đứng đắn, lòng dũng cảm, khả năng tự chủ [8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải luôn tự tu dưỡng, trau dồi PC cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân, vì “đạo đức là cái gốc của người làm cách mạng”; Người còn cho rằng:
con đường để hình thành phát triển những phẩm chất của mỗi người chúng ta đó là giáo dục, tự giáo
dục và tự rèn luyện.
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
“Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Tác giả Khăm Kẹo Vông Phi La trong công trình nghiên cứu về PC nhân cách của người
hiệu trưởng trường tiểu học cho rằng người hiệu trưởng tiểu học cần phải có ba nhóm PC: nhóm PC
đạo đức, nhóm PC tư tưởng – chính trị, nhóm PC công việc. Trong đó, nhóm PC đạo đức giữ vị trí
quan trọng hàng đầu [16].
Tác giả Phạm Tất Dong trong nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề những PC cá
nhân đáp ứng yêu cầu của nghề và tuyển chọn tâm lý đối với nghề, đặc biệt đối với nghề y, đòi hỏi
phải có những PC: tinh thần trách nhiệm; sự tận tình; sự thông cảm; sự quan tâm; lòng từ thiện [5],
[6], [7], [8].
Trong luận án tiến sĩ “Cơ sở tâm lý học của sự hình thành và phát triển nhân cách người thầy
thuốc quân đội tương lai ”của mình, tác giả Nguyễn Sinh Phúc đưa ra mô hình các PC nhân cách
của bác sỹ quân y gồm 15 PC sau: Năng lực tổ chức chỉ huy; Năng lực chuyên môn; Lòng nhân ái;
Lập trường tư tưởng; Sẵn sàng nhận nhiệm vụ; Khả năng giao tiếp; Tinh thần trách nhiệm; Nhiệt
tình công tác, Tính kỷ luật; Uy tín; Trung thực; Ham nghiên cứu khoa học, Khiêm tốn; Tính tập thể;
Tính sáng tạo [21].
Tác giả Trần Trọng Thủy đề cập nhiều đến việc xây dựng họa đồ nghề nghiệp cho các nghề
(Professiogramme) trong đó cũng rất chú trọng vấn đề mô tả những đặc điểm tâm lý của nghề trong
họa đồ tâm lý mà phần hết sức quan trọng là những PCTL đáp ứng đòi hỏi của nghề [31].
Trong lĩnh vực nghiên cứu PC và PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề cụ thể cũng đã có khá
nhiều tác giả nghiên cứu sâu và chỉ ra một số PCTL cơ bản đáp ứng yêu cầu của nghề như:
Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1966) trong nghiên cứu: “Một số đặc điểm tâm lý - xã hội của nhà doanh
nghiệp”, phân tích các đặc điểm của hoạt động kinh doanh đã nêu ra 14 PCTL của nhà doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt
động kinh doanh. Đó là: Bền bỉ; Cần cù; Có chí; Dám mạo hiểm; Có đầu óc tính toán kinh doanh; ham học hỏi, hiểu biết;
Linh hoạt, năng động; Nhạy bén; Óc sáng kiến, sáng tạo; Quảng giao; Quyết đoán; Thạo việc, Có kinh nghiệm về lĩnh vực
mình kinh doanh; Thận trọng; Thông minh; Tự tin [1].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý – xã hội
của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã chia các PC thành 3 nhóm: những khả năng, những kỹ năng
và những PCTL đặc trưng hiện có ở giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong đó có 60 PC cụ thể [22].
Trên lĩnh vực tâm lý học quân sự có khá nhiều tác giả nghiên cứu về PCTL của người quân
nhân trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quân sự, như:
Tác giả Nguyễn Mai Lan xác định 22 PCTL đặc trưng của Mã dịch viên thuộc 4 nhóm: Xu
hướng, Tính cách, Năng lực, Khí chất bao gồm các PCTL: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp bảo
vệ bí mật quốc gia; Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự phát triển của ngành Cơ
yếu; Tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; Tính kỷ luật cao; Bản lĩnh chính trị vững vàng theo
chủ nghĩa Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Ý thức trau dồi PC đạo đức và trình độ chuyên môn
mã dịch; Tính cẩn thận chính xác; Kỹ năng ghi nhớ các nhóm ký tự; Kỹ năng thao tác trên máy mã;
Kỹ năng xử lý thông tin; Kỹ năng tri giác vận động; Tính độc lập trong công việc; Gắn bó với nghề;
Tính kín đáo; Năng động, hoạt bát; Tư duy từ ngữ; Điềm tĩnh; Vốn từ chuyên môn phong phú, Khả
năng kiềm chế; Nhạy cảm; Khả năng thích nghi tình huống nghề nghiệp [17].
Tác giả Đỗ Văn Thọ trên cơ sở phân tích đặc điểm hoạt động của Cảnh sát hình sự đã nêu lên
hai nhóm đặc điểm tâm lý (biểu hiện thông qua tính tích cực và tiêu cực) và 22 PCTL cần có của
những chiến sĩ công an: Lòng yêu nghề, hứng thú với nghề; Lòng trung thành với Đảng CSVN, với
nhà nước CHXHCN Việt Nam; Tinh thần đấu tranh bảo vệ lẽ phải; Tinh thần chịu đựng gian khổ,
nỗ lực vượt khó; Khả năng tư duy linh hoạt, nhanh nhạy; Trí nhớ tốt; Khả năng thích nghi cao, dễ
hòa nhập; Khả năng giao tiếp tốt; Khả năng phản ứng nhanh; Lòng dũng cảm; Tính kiên quyết;
Tính quyết đoán; Tính độc lập; Khả năng tự chủ, tự kiềm chế; Tính thận trọng; Tính kiên trì; Tính
trung thực; Khả năng phán đoán tốt; Có lòng tin vào những điều tốt đẹp; Khả năng quan sát tốt;
Tính kỷ luật (cao); Tinh thần trách nhiệm (cao).
Tác giả Nguyễn Văn Tập trong công trình nghiên cứu của mình đã xác định 28 PCTL cần có
của cán bộ quản giáo trong hoạt động cải tạo phạm nhân: Nhận thức sâu sắc về Chủ nghĩa Mac-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng; Nắm vững đường lối, chính
sách, pháp luật; Trung thành với Đảng, với chế độ XHCN; Tính giáo dục; Tính vị tha, nhân ái;
Liêm khiết; Tận tụy với công việc; Tinh thần trách nhiệm cao; Tính công tâm (công bằng); Tính kế
hoạch; Tính kỷ luật; Tính đoàn kết; Tính nguyên tắc; Tính trung thực; Tính cương quyết; Tính kiên
trì; Tính dũng cảm; Tính nghị lực; Tính tự chủ; Tính quyết đoán; Năng lực nghiệp vụ CA; Năng lực
tổ chức; Năng lực sư phạm; Năng lực giao tiếp; Thói quen nói năng lịch sự, có văn hóa; Tác phong
đàng hoàng, đĩnh đạc; Tác phong sâu sát, cụ thể, rõ ràng [25].
Các tác giả nói trên là những người đi đầu, đột phá trong việc nghiên cứu tâm lý nghề nghiệp
ở Việt Nam. Tuy kết quả nghiên cứu như thế nào đi nữa, nhưng chắc chắn những tác giả trên với
các công trình nghiên cứu của mình đã góp phần lớn vào thực tiễn tuyển chọn và đào tạo nghề ở
nước ta.
Riêng đối với ngành du lịch, trong quá trình tìm hiểu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và quá trình
tìm kiếm tài liệu phục vụ cho luận văn, chúng tôi nhận thấy: cho đến nay có rất ít các công trình khoa học nghiên cứu
chính thức về những PCTL cần có của những người làm công tác du lịch, đặc bi