Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho
mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp
bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để
thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xãhội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách
trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để duy trì
những thành quả đãđạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ
vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng lạc
“tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai
đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ
bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đãcó tại các cơ sở
quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA, NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong
nước vừa phong phú vừa chủ động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nước vừa là
tiền đề vừa là điều kiện để “ đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn
nước ngoài sẽ không huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu
nguồn vốn “bạn hàng” trong nước.
47 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn:
“Một số vấn đề huy động vốn trong nước cho
sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay”
2
Lời mở đầu
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho
mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp
bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để
thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xãhội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách
trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để duy trì
những thành quả đãđạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ
vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng lạc
“tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai
đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ
bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đãcó tại các cơ sở
quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA, NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong
nước vừa phong phú vừa chủ động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nước vừa là
tiền đề vừa là điều kiện để “ đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn
nước ngoài sẽ không huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu
nguồn vốn “bạn hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đãmở ra những khả năng to lớn để huy
động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn ở trong nước được xem là quyết
định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kịnh tế.
Qua nghiên cứu thực tế, và với cơ sở kiến thức đãtích luỹ được trong thời
gian qua em nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động nguồn vốn đầu tư
trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Cũng như xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề tài: “Một số
3
vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ở Việt Nam hiện nay”.
Nội dung của đề tài này bao gồm các nội dung sau:
Phần 1: Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn.
PHầN 2: Thực trạng huy động vốn trong nước trong thời gian qua ở Việt
nam.
Phần 3: Định hướng và giải pháp huy động vốn trong nước ở Việt nam
trong thời gian tới.
PHầN 1
Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn
1/ Những vấn đề lý luận về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam.
Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất,
đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu qủa các hoạt động
kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh nghiệp,
nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy, chính sách tạo
vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có vốn và do đó, việc sử
dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi trường
kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lợi và tăng
trưởng trong quá trình tái sản xuất xãhôị. Các nguồn chủ yếu bao gồm :vốn đầu
tư kinh tế của nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền
nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp và tổ choc tài chính quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho tăng
trưởng. Để tao ra tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích luỹ một lượng
vốn từ 20- 25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế là
4
hai con số trong vài thập niên tới thì cần thì tỷ lệ tích luỹ vốn phải lên tới trên
30% GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần phải giải quyết để khai thác nguồn vốn
đặc biệt là nguồn vốn trong nước.
Vốn ngân sách nhà nước một thời gian giảm xuống nay đãbắt đầu tăng
lên. năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đãtăng lên là 44% ngân sách. Để đạt
được kết quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đãđược cải cách một
cách toàn diện và thu được nhiều kết quả cho ngân sách. Năm1990 thu ngân
sách từ thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó là 93,8%. Nếu so với
GDP thì các tỷ trọng tương tự là 17,3% và 17,06% vốn huy động từ các nguồn
khác cũng có xu hướng tăng do chính sách khuyến khích đầu tư, tư nhân và tạo
dựng được môi trường đầu tư cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Điều mà ai
cũng có thể đồng ý với nhau là một nền kinh tế kém phát triển có thể cất cánh
được nếu không có sự tham gia của các nguồn vốn từ nước ngoài. Vai trò của
nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản
ngại, tạo sức bật cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động
nguồn vốn từ bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta
không nên trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động
vốn để đầu tư phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn
trong nước đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này còn
thấp so với vốn dài hạn ( cho thời kỳ 1996- 2000) vẫn còn khó huy động trong
hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước , cùng với kinh
nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn trong nước vẫn là
nguồn vốn có tính chất quyết định, người dân trong nước vẫn chưa dám bỏ vốn
ra đầu tư thì người nước ngoài cũng chưa mạnh dạn bỏ vốn dầu tư vào Việt
nam.
Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho được các
nguồn vốn, mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho đầu tư
5
phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và đạt được
chiến lược hiệu quả kinh tế - xãhội đề ra.
Đầu tư phát triển phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Phải được tính bền vững trong đầu tư phát triển, tức là tự bản thân nó phải
có mầm mống cho tăng trưởng trong tương lai, nhằm sử dụng tài nguyên một
cách hợp lý để không ngừng khai thác lợi thế so sánh của tiềm năng đất nước.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển phải có hiệu quả để tái tạo và phát
triển các nguồn vốn, tạo tiền đề cho việc huy động vốn ở giai đoạn tiếp theo.
- Nền kinh tế Việt nam có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu
người khoảng 300 đô la/ năm, lại nằm trong khu vực ASEAN có tốc độ tăng
trưởng cao, nên Việt nam phảt duy trì tốc độ tăng trưởng cao để đuổi kịp các
nước trong khu vực trong vài thập niên, mặc dù chịu tác đông nhất định của
cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực .
Vì vậy Chính phủ phải có kế hoạch,huy động vốn phù hợp với khả năng
phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân.
trong việc duy trì và phát triển nền kinh tế, nếu không có vốn thì mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh không thể thực hiện được.
. Vốn đầu tư:
- Khái niệm: Vốn đầu tư là những chi phí để tái sản xuất tài sản cố định
bao gồm các chi phí để thay thế những tài sản cố định bị thải loại để tăng mới
các tài sản cố định và để gia tăng các tài sản cố định tồn kho.
- Các hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
. Cơ cấu vốn đầu tư:
a. Nguồn vốn trong nước bao gồm các loại vốn chủ yếu sau:
6
- Vốn huy động từ ngân sách nhà nước.
- Vốn huy động trong dân cư.
- Vốn huy động từ tiết kiệm của các doanh nghiệp.
b. Nguồn vốn ngoài nước bao gồm:
- Vốn đầu tư trực tiếp
- Vốn đầu tư gián tiếp
- Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức.
2/ Các bộ phận cấu thành vốn trong nước.
2.1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước
Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất
quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh
đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch. Chính
sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và
quy hoạch phát triển kinh tế- xãhội.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung
từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ của tư
nhân nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần
có những sửa đổi trong chính sách đầu tư.
Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:là các nguồn tàI
chính có khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước mang lại.
-Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất.
-Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông-phân phối.
-Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ.
7
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản:
-Thuế ,phí và lệ phí.
-Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
-Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
-Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không
chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm mà còn
là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên qua
các năm, bình quân từ 13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% ( thời kỳ
1991- 1995) ngân sách nhà nước từ chỗ thu không đủ chi đến nay đãcó một phần
tích luỹ dành cho đầu tư phát triển từ 2,3% GDP năm 1991 tăng lên 6,1% GDP
vào năm 1996 ( nếu cả do khấu hao cơ bản).
Nguyên nhân chủ yếu của nó là:
- Ngân sách nhà nước đãđiều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm tạo ra các tiền
đề thu hút vốn đầu tư.
- Chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung
vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xãhội.
- Ngân sách nhà nước không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nước
thông qua cổ phần hoá và tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp-
lâm nghiệp.
Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nước phải dành khoảng từ 20-
25% tổng số chi ngân sách cho đầu tư phát triển hàng năm. Khai thác có hiệu
quả tín dụng nhà nước đầu tư phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh hình thức vay
vốn trong nhân dân, cho đầu tư phát triển kinh tế là quốc sách hàng đầu. Muốn
đạt được các hiệu quả trên cần phải thực các biện pháp sau:
8
Hình thành nguồn vốn đầu tư trong ngân sách: Các biện pháp quan trọng
nhất để tăng thu là thu đúng, thu đủ các khoản vay trong nước.
Thu ngân sách nhà nước trong sự phát triển bền vững, tức là thu nhưng
không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bổi dưỡng phát triển và
mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. Điều đó nghĩa là cần xác
định mức thu hợp lý vừa đảm bảo NSNN có nguồn thu cao, vừa đảm bảo để các
đối tượng NSNN có đủ điều kiện tài chính tiếp tục phát triển. Xác định mức thu
tại diểm “giới hạn tối ưu”này không đơn giản mà cần phân tích, cân nhắc nhiều
nhân tố khác nhau. Những nguồn thu thuộc khu vực kinh tế quốc doanh và có ý
nghĩa đặc biệt thì cần chú ý bồi dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tư, trợ
giúp về khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực... trong một chừng mực không
bao cấp.
Không tận thu NSNN quá mức để bao cấp trong cấp phát mà chỉ thu trong
chừng mực tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu chi của Nhà nước. Đối với những
ngành , những địa phương có thất thu lớn thì cần tăng cường thu và tận thu,
nhưng quan điểm bao trùm thì không phải là tận thu-Vì điều đó sẽ ảnh hưởng
đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhưng thuế
xuất đơn giản hoá. Kết quả là: giảm được tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho
ngân sách, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển,
đồng thời tránh được các khoản lạm thu, gây khó khăn phiền hà đến sinh hoạt và
các hoạt động khác của đời sống dân cư.
+ Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo đúng đối tượng trả nợ và tính kỹ các
điều kiện trả trước khi ký hợp định khung vay vốn, và hiệp định vay cho từng
công trình, chương trình dự án đầu tư.
9
Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dàI hạn cho phát triển
kinh tế -xãhội cần thường xuyên đổi mới cảI tiến các hình thức huy động, đặc
biệt là hệ thống thuế.
- Phân bổ và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
+ Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách nhà nước và sử dụng đúng hướng
nguồn vốn này với biện pháp bao chùm là chống thất thu và tiết kiệm chi thường
xuyên để tăng quy mô nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
+ Từng bước xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát quản
lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nước.
+ Tăng cường công tác quản lý sau dự án. Những dự án này dùng nguồn
vốn nhà nước thường có quy mô vốn rất lớn, hiện nay việc thẩm định các dự án
là tương đối chặt chẽ thì trái lại việc quản lý sau dự án lại bị buông lỏng dẫn đến
tình trạng chi tiết trên danh nghĩa nhưng lại l•ng phí trên thực tế. Sử dụng nhiều
cơ chế khác nhau để quản lý vốn, với nguồn vốn nhà nước được thông qua vay
nước ngoài với điều kiện ưu đ•i thì tiến hành cho vay lại để tạo điều kiện bình
đẳng trong sản xuất kinh doanh và tái tạo nguồn vốn. Tiết kiệm trong chi tiêu
ngân sách hiện vẫn là một khả năng rất lớn cần tận dụng, bởi lẽ so với các nước
tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước là tương đối cao. Tỷ
lệ thuế ở các nước so với GDP là tương đối cao ( thường đạt mức dưới 20% ).
2.2/ Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp nhà nước.
Trong chiến lược ổn định kinh tế Việt nam đến năm 2000, Đảng ta đãchỉ
rõ “ chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc huy động vốn và sử dụng vốn
có hiệu quả trong toàn xãhội, tăng nhanh sản phẩm xãhội và thu nhập quốc dân”
. Tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề mà Đảng và các
doanh nghiệp nhà nước luôn quan tâm. Bởi có huy động được vốn mới tiến hành
được quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
10
Đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính hướng vào các việc mở rộng
khả năng hoạt động mạnh mẽ có hiệu quả cao của các đơn vị sản xuất kinh
doanh, đó là những tế bào tài chính; làm cho các nguồn vốn chu chuyển nhanh
và linh hoạt, đồng thời tạo ra cơ sở để nhà nước có khả năng kiểm soát được nền
tài chính quốc gia.
Trong lĩnh vực đầu tư cho khu vực doanh nghiệp nhà nước cần phải thực
hiện một số giải pháp và chính sách sau:
-Các doanh nghiệp nhà nước thuần tuý kinh doanh tự huy động nguồn vốn
trong xãhội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo được điều kiện đầu tư bình
đẳng với các thành phần kinh tế của doanh nghiệp.
-Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp
thật cần thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu, với sở hữu đan xen, cổ
phần hoá" Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa,
cùng loại hình hoạt động, nếu như không có các quy chế đặc biệt thì đều có cơ
chế về thuế, tín dụng và l•nh thổ.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ chế
chính sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian, gây khó khăn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ chuyển nhanh
sang các chức năng quản lý nhà nước và chuyển nhanh về cơ chế Bộ chủ quản
để các doanh nghiệp tự chủ trong bảo bảo toàn và phát triển nguồn vốn.
- Hiện nay nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi
lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ chưa
được đổi mới, chất lượng của sản phẩm chưa cao, nên khả năng tiết kiệm cho
đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý nghiêm ngặt và
khấu hao đủ. Vì vậy để huy động được nguồn vốn lớn trong doand nghiệp nhà
nước thì đòi hỏi nhà nước phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để
11
khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu , để có thể đầu tư phát triên sản
xuất.
- Trong giai đoan 1996- 2000 vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu
tư khoảng14-15% tổng số của toàn xãhội. Mở rộng quyến tự chủ của các doanh
nghiệp theo hướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh nghiệp một cách
hợp lý, tính đầy đủ giá trị quyền sử đất vào vốn vào tài sản tại doanh nghiệp.
2.3/ Nguồn vốn huy động từ trong dân cư:
Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong
dân cư có khoảng 6 tỷ USD được sử dụng qua điều tra của bộ kế hoach kế
hoạch đầu tư và tổng cục thống kê như sau:
- 44% để dành của dân là dùng để mua vàng và ngoại tệ
- 20% để dành của dân được dùng để mua nhà đất và cải thiện đời
sống sinh hoạt.
- Tuy nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhà nước huy động vốn
từ trong dân với nhiều chính sách khác nhau, khi thực tế áp dụng còn nhiều ràng
buộc. Để tăng cường sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài vùng
ngân sách thì cần phải có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực
hành tiết kiệm, làm giàu chính đáng tạo lòng tin cho nhân dân yên tâm bỏ vốn ra
đầu tư, tiềm lực trong nhân dân còn rất rất lớn, muốn vậy nhà nước phải ổn dịnh
tiền tệ.
Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát triển nông nghiệp, mở mang ngành nghề ở nông thôn phát triển công
nghiệp thủ công, thương mại , dịch vụ, vận tải…Vì vậy chúng ta cần phải thực
hiện các chính sách sau:
- Đa dạng hoá các công cụ, huy động vốn để cho mọi ngườ dân ở bất cứ
nơI nào cũng có đIều kiện sản xuất kinh doanh.
- Tăng l•i xuất tiết kiệm đảm bảo l•i xuất dương.
12
- Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán
tiền gửi ở một nơi và rút ra bất cứ lúc nào, có vậy chúng ta mới đưa được nguồn
vốn dưới dạng cất giấu vào lưu thông.
- Tao môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo quy định
của luật pháp để người dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
- Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở
các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất trên cơ sơ khai thác thế mạnh của từng
vùng, phát huy truyền thống hiện có của địa phương.
- Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích tư nhân trong nước
như tự đầu tư
- Thực hiện chính sách xãhội hoá dần đầu tư phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân.
2. 4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài .
Nó có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần
lớn các nước đang phát triển và là điều kiện để nhang chóng thiết lập cacad quan
hệ kinh tế quốc tế, gắn thị trường nội dịa với thị trường thế giới trên cả bốn mặt
:thị trường hàng hoá, thị trường tàI chính, thị trường lao động và thị trường
thông tin. Vì vậy, phảI xây dung một chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù
hợp voí những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị -xãhội và khoa học hiện
nay. Cần có chính sách tàI chính thích hợp để khuyến khích đầu te nước ngoàI
dưới hình thức vay nợ, đầu tư tàI chinh, đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh
doanh, thuê chuyên gia… Thực hiện chế độ tàI chính ưu tiên như thuế nhập
khẩu vật tư kỹ thuật , dịch vụ thông tin, thuế xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế
thu nhập , quyền được đảm bảo tàI sản, đIều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về
nước và các dịch vụ đầu tư ưu đ•I khác. Khuyến khích đặc biệt đôi với đầu tư
nước ngoàI cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi
nhọn, các ngành sử dụng nhiều lao độngvà những dự án khai thác tài nguyên có
13
số vốn khổng lồ. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân
hàng thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, được kinh doanh ngoại
hối và thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thươong nhanh chóng, thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong và ngoài nước .
Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong “ và “hút ngoài”;giữa vốn tập
trung của Nhà nước và vốn doanh nghiệp (có được từ mọi nguồn )theo một định
hướng đầu tư đúng đắn trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp với tong
giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta là yếu tố có ý
nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia,
đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bước chuyển biến có ý nghĩa cơ bản của công
cuộc đổi mới cơ chế kinh tế.
3/ Vai trò của vốn trong nước với phát triển kinh tế và ý nghĩa của
vấn đề hu