Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với con 
người. Thông tin là yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội. Thông tin phát triển cùng với 
sự phát triển của xã hội loài người. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, trình độ văn minh 
càng cao thì nhu cầu thông tin càng lớn về số lượng và đòi hỏi về chất lượng, về tính nhanh 
nhạy kịp thời ngày càng cao hơn. 
Sự phát triển nhanh chóng, từng phút, từng giờ của các phương tiện thông tin đại 
chúng đã góp phần tạo nên một kỷ nguyên thông tin trên toàn cầu. Người ta đón nhận 
thông tin từ nhiều chiều và theo những cách thức khác nhau. Trong đó, phát thanh là một 
trong những phương tiện truyền thông đại chúng hữu hiệu nhất. Vô tuyến truyền thanh 
chỉ mới trở thành công cụ ưu việt cho truyền thông đại chúng các nước công nghiệp vào 
cuối những năm 20 và nhất là những năm 30 của thế kỷ XX. Con sóng ngầm mãnh liệt
này vẫn bị xô đẩy bởi hai động lực trên trái đất là sự phát triển công nghiệp hoá và việc 
tuyên truyền chính trị hoặc thương mại. 
Phát thanh không có được cái già dặn như báo in, không hiện đại, hấp dẫn như 
truyền hình, nhưng nó đòi hỏi phải được hiểu ngay tức khắc và can dự trực tiếp vào các 
sự kiện chính trị nổi bật. Phát thanh ra đời tạo ra cuộc bùng nổ truyền thông đại chúng lần 
thứ hai. Thông tin trên phát thanh không bị giới hạn, ngăn cách bởi hàng rào địa lý, hải 
quan mà ngay lập tức tác động đến hàng triệu người trên khắp hành tinh.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
91 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3361 | Lượt tải: 4
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Nâng cao chất lượng chương trình phát 
thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, 
đồng bằng sông Cửu Long 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với con 
người. Thông tin là yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội. Thông tin phát triển cùng với 
sự phát triển của xã hội loài người. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, trình độ văn minh 
càng cao thì nhu cầu thông tin càng lớn về số lượng và đòi hỏi về chất lượng, về tính nhanh 
nhạy kịp thời ngày càng cao hơn. 
Sự phát triển nhanh chóng, từng phút, từng giờ của các phương tiện thông tin đại 
chúng đã góp phần tạo nên một kỷ nguyên thông tin trên toàn cầu. Người ta đón nhận 
thông tin từ nhiều chiều và theo những cách thức khác nhau. Trong đó, phát thanh là một 
trong những phương tiện truyền thông đại chúng hữu hiệu nhất. Vô tuyến truyền thanh 
chỉ mới trở thành công cụ ưu việt cho truyền thông đại chúng các nước công nghiệp vào 
cuối những năm 20 và nhất là những năm 30 của thế kỷ XX. Con sóng ngầm mãnh liệt 
này vẫn bị xô đẩy bởi hai động lực trên trái đất là sự phát triển công nghiệp hoá và việc 
tuyên truyền chính trị hoặc thương mại. 
Phát thanh không có được cái già dặn như báo in, không hiện đại, hấp dẫn như 
truyền hình, nhưng nó đòi hỏi phải được hiểu ngay tức khắc và can dự trực tiếp vào các 
sự kiện chính trị nổi bật. Phát thanh ra đời tạo ra cuộc bùng nổ truyền thông đại chúng lần 
thứ hai. Thông tin trên phát thanh không bị giới hạn, ngăn cách bởi hàng rào địa lý, hải 
quan… mà ngay lập tức tác động đến hàng triệu người trên khắp hành tinh. 
Trước đây, nhiều nhà khoa học đã nhận định, thế kỷ XXI là thế kỷ của phát 
thanh. Quả thực, tại Việt Nam, sự phát triển hệ thống phát thanh từ trung ương đến địa 
phương đã làm cho đời sống báo chí trong nước ngày càng phong phú và sôi động. Công 
nghệ sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp (PTTT) xuất hiện phổ biến trong cả 
nước từ những năm 1997 tiếp tục khẳng định phát thanh còn đóng vai trò hết sức quan 
trọng trong đời sống xã hội, là phương tiện thông tin - giải trí hấp dẫn có khả năng chia 
nhỏ đối tượng công chúng. Một minh chứng cụ thể là trong khi phần đông các tỉnh, thành 
chưa thực hiện được các chương trình truyền hình trực tiếp hàng ngày, nhưng phát thanh 
của chính địa phương đó lại tổ chức được đều đặn từ 30 phút đến 60 phút trực tiếp trong 
ngày như các Đài Hải Phòng, Hà Nội, Ninh Bình, Hà Tây... ở phía Bắc và các Đài Lâm 
Đồng, Đồng Tháp, Vĩnh Long... ở phía Nam. 
Bên cạnh chức năng chính là chuyển tải thông tin, hệ thống truyền thông đại 
chúng nói chung và phát thanh nói riêng còn có chức năng quan trọng là tuyên truyền và 
định hướng tư tưởng tình cảm, hình thành lối sống tích cực trong công chúng. Văn kiện 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định quan điểm: "Phát triển mạnh và nâng cao 
chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát 
hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào 
dân tộc thiểu số" [17, tr.214]. 
Trong quản lý hành chính cũng như về vị trí địa lý, đồng bằng sông Cửu Long 
(ĐBSCL) gồm 13 tỉnh, thành phố, trong đó có 6 tỉnh Bắc sông Hậu (BSH). Đây là cách 
phân chia theo cụm thi đua của hệ thống phát thanh truyền hình (PT-TH) trong cả nước. 
Đó là các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh và Đồng Tháp, 
đều nằm ở phía bắc sông Hậu Giang. 
Cùng với phát thanh trên cả nước, trong những năm qua, phát thanh các tỉnh khu 
vực ĐBSCL, trong đó có các tỉnh BSH, đã có nhiều cố gắng thực hiện chức năng thông 
tin - giải trí, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương. Thế 
nhưng, trong xu thế phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông đại chúng 
trong cả nước, mặc dù có thế mạnh riêng nhưng phát thanh của các tỉnh này vẫn chưa thể 
chiếm ưu thế vượt trội trong khu vực. 
Riêng khu vực ĐBSCL, nhờ địa hình bằng phẳng, việc phủ sóng phát thanh và 
truyền hình khá thuận lợi. Người dân trong khu vực có thể tiếp cận được chương trình 
của nhiều đài địa phương khác nhau. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương trong cả 
nước, ở khu vực này truyền hình được quan tâm đầu tư nhiều hơn do thu được nhiều lợi 
nhuận qua quảng cáo. Hơn nữa, do có những ưu thế vượt trội trong thông tin nên truyền 
hình luôn nhận được sự quan tâm, ưu ái của các cấp các ngành ở địa phương. 
Tình hình đó đã khiến cho không chỉ những người trực tiếp lãnh đạo, quản lý ở 
các Đài Phát thanh và Truyền hình (PT&TH) mà ngay cả những phóng viên (PV), biên 
tập viên (BTV) trực tiếp thực hiện sản xuất chương trình cũng quan tâm đến truyền hình 
nhiều hơn mà coi nhẹ phát thanh. Mặc dù cho đến nay, nếu so với các loại hình truyền 
thông đại chúng khác, phát thanh vẫn là loại hình có nhiều công chúng nhất, nhưng rõ 
ràng điều đó chưa đủ để cho loại hình này tiếp tục phát triển. 
Tình hình kể trên đã đặt phát thanh đài tỉnh vào cái thế phải thường xuyên cạnh 
tranh để khẳng định sự tồn tại của mình. Tuy nhiên, đến nay đây vẫn đang là một trong 
những vấn đề nan giải nhất mà những người làm phát thanh các tỉnh BSH và hầu hết 
những người đang làm phát thanh trong cả nước nói chung chưa tìm ra lời giải đáp thỏa 
đáng. Làm thế nào để phát thanh tiếp tục phát triển? Bằng cách nào để nâng cao chất 
lượng các chương trình phát thanh? Phát thanh các tỉnh BSH sẽ đi theo hướng nào? 
Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Nâng cao chất 
lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu 
Long" cho luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của mình. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Cùng với nền báo chí cả nước, báo chí khu vực ĐBSCL nói chung và các tỉnh 
BSH nói riêng có sự phát triển mạnh mẽ và có nhiều đóng góp quan trọng trong quá 
trình phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Tuy nhiên, đến nay chưa có nhiều công 
trình nghiên cứu về hoạt động báo chí ở khu vực này. 
Trong quá trình khảo sát các tư liệu liên quan để thực hiện luận văn này, chúng 
tôi thấy đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ít, nhiều có liên quan đến đề tài của 
chúng tôi, cụ thể như sau: 
Về các công trình nghiên cứu, lý luận, giáo trình đã xuất bản thành sách đã có: 
- Cuốn chuyên luận Nghề báo nói của tác giả Nguyễn Đình Lương do Nhà xuất 
bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy phần, trong đó đã đề 
cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể tài và những vấn đề thuộc về 
nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát thanh; phát thanh với thính giả v.v... 
- Tài liệu Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh" của Lois Baird, Trường 
Phát thanh Truyền hình và Điện ảnh Ôxtrâylia, do Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) dịch 
và lưu hành nội bộ năm 2000. 
- Giáo trình Báo chí phát thanh do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và Tuyên 
truyền và Đài TNVN viết (do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2002) có 
tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những vấn đề của phát thanh 
Việt Nam hiện đại. 
- Sách chuyên luận Sáng tạo tác phẩm báo chí của tác giả Đức Dũng (do Nhà 
xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2002) có chương 2 đề cập đến vấn đề "Nói và 
viết cho phát thanh, truyền hình". 
- Chuyên luận: Lý luận báo phát thanh của Đức Dũng (do Nhà xuất bản Văn hoá 
- Thông tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến những vấn đề của đặc 
trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh. 
- Sách chuyên luận Các thể loại báo chí phát thanh (của V.V. Xmirnôp, Nga), 
được Nhà xuất bản Thông tấn dịch và phát hành năm 2004. 
- Hai tài liệu: Phát thanh - Truyền thanh nông thôn và Cẩm nang hướng dẫn phát 
thanh trực tiếp, (do Ban Địa phương và Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng nghiệp vụ phát 
thanh của Đài TNVN dịch và lưu hành nội bộ) đều đã được tái bản năm 2005. 
- Tài liệu: 261 phương pháp đào tạo phát thanh viên và người dẫn chương trình, 
(Học viện Truyền thông Bắc Kinh, Đoàn Như Trác biên dịch) đã được Đài TNVN phát 
hành năm 2005. 
- Giáo trình: Phát thanh trực tiếp, (do GS,TS. Vũ Văn Hiền và TS. Đức Dũng chủ 
biên) đã được Nhà xuất bản Lý luận chính trị in và phát hành năm 2007. 
Về các luận văn thạc sĩ có đề cập đến những vấn đề của báo chí phát thanh, 
truyền hình địa phương phía Nam, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu sau: 
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lâm Thiện Khanh (thực hiện năm 
2003 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Nâng cao chất lượng các tin tức 
thời sự sản xuất tại Đài truyền hình Cần Thơ. 
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lê Thanh Trung (thực hiện 
năm 2004 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Tính thuyết phục và hiệu quả 
của truyền hình trực tiếp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. 
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Dương Thị Thanh Thủy (thực hiện 
năm 2005 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Tổ chức sản xuất chương 
trình thời sự truyền hình ở Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Tháp. 
- Luận văn Thạc sĩ Báo chí của Nguyễn Cẩm Nam (thực hiện năm 2005 tại 
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội) có tiêu đề: Tác 
động của văn hóa bản địa Nam Bộ trong công tác tổ chức và tiếp nhận chương trình thời 
sự, văn hóa - xã hội trên các Đài truyền hình Đông Nam Bộ (2001-2006). 
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Phạm Thị Thanh Phương (thực hiện 
năm 2008 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Hệ thống phát thanh, truyền 
hình các tỉnh miền Đông Nam Bộ. 
Khóa luận chuyên ngành Báo chí của Nguyễn Văn Bảy, thực hiện năm 2009, với 
tiêu đề: Chương trình Thời sự phát thanh Đài Phát thanh và Truyền hình Bến Tre, đã đề 
cập và phân tích một cách có hệ thống chương trình thời sự phát thanh. Nhưng như tên 
gọi của nó, đề tài nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phạm vi chương trình thời sự của một 
trong số sáu đài tỉnh thuộc khu vực BSH. 
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập 
đến phát thanh cấp tỉnh ở khu vực BSH nói riêng và ở khu vực ĐBSCL nói chung. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là chất lượng 
các chương trình phát thanh tại các tỉnh thuộc khu vực BSH, được biểu hiện qua các yếu 
tố: nội dung, hình thức các chương trình và kể cả về chất lượng kỹ thuật. 
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi của đề tài được được giới hạn trong hoạt động 
sản xuất các chương trình phát thanh tại các đài PT&TH ở 6 tỉnh thuộc khu vực BSH 
gồm các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Đồng Tháp. 
Thời gian khảo sát được giới hạn từ tháng 6.2008 đến tháng 6.2009. 
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
- Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn này là chỉ ra những 
mặt thành công, hạn chế và tìm kiếm các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, 
hiệu quả chương trình phát thanh tại sáu đài cấp tỉnh BSH thuộc khu vực ĐBSCL. 
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả luận văn cần 
phải hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: 
+ Khảo sát, nghiên cứu những vấn đề của lý luận báo chí, truyền thông - đặc biệt 
là lý luận về báo chí phát thanh để rút ra những luận điểm khoa học phục vụ cho công 
việc nghiên cứu, khảo sát thực tế. 
+ Khảo sát thực trạng sản xuất chương trình phát thanh tại sáu đài PT&TH cấp 
tỉnh khu vực BSH, qua đó khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế trong các 
chương trình phát thanh của từng đài. 
+ Tìm hiểu ý kiến của những người đang trực tiếp lãnh đạo, quản lý và đội ngũ 
PV, BTV làm phát thanh ở sáu đài cấp tỉnh khu vực BSH. 
+ Thăm dò dư luận xã hội đối với công chúng phát thanh ở sáu tỉnh BSH. 
+ Bước đầu nêu ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất 
lượng các chương trình phát thanh cấp tỉnh của các đài tỉnh BSH, ĐBSCL. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở các đường lối, chủ trương và 
các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về báo chí cách mạng Việt Nam. Những 
vấn đề cơ sở lý luận báo chí truyền thông nói chung và lý luận báo chí phát thanh nói 
riêng cũng được vận dụng như những cơ sở quan trọng trong quá trình nghiên cứu. 
- Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng 
hợp các phương pháp sau đây: 
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để hệ thống hóa các vấn đề lý 
luận về quan điểm báo chí nói chung và về lý luận báo chí phát thanh nói riêng. 
+ Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để khảo sát thực trạng hoạt động 
phát thanh đài tỉnh BSH. 
+ Các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh được sử dụng trong 
việc xem xét, đánh giá, phân tích các chương trình phát thanh ở các đài khảo sát, từ đó rút 
ra những kết luận khoa học cần thiết phục vụ cho các luận điểm được triển khai trong 
luận văn. 
+ Các phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu được sử dụng đối với 
công chúng (khoảng 600 phiếu) và những nhà quản lý, lãnh đạo, các PV, BTV phát thanh 
(khoảng 66 phiếu) tại các đài được khảo sát để từ đó thu thập những ý kiến thực tế, cung 
cấp cho việc triển khai các luận điểm khoa học cần thiết trong luận văn. 
Tất cả các phương pháp nêu trên đều có tác động tích cực và hiệu quả vào kết 
quả nghiên cứu. 
6. Đóng góp mới của đề tài 
Đây là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về chất lượng các chương trình phát 
thanh ở các đài tỉnh BSH, ĐBSCL. 
Việc khẳng định những thành công, hạn chế và qua đó tìm ra nguyên nhân của 
những ưu điểm, nhược điểm trong các chương trình phát thanh được khảo sát cùng với 
những giải pháp, khuyến nghị được nêu ra cũng là những đóng góp mới của đề tài nghiên 
cứu này, có thể góp phần trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của chương 
trình phát thanh đài tỉnh trong khu vực. 
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 
- Về lý luận: Đề tài là sự vận dụng tổng hợp những kiến thức về lý luận báo chí, 
truyền thông đã được trang bị trong chương trình đào tạo thạc sĩ để giải quyết những vấn 
đề đang đặt ra trong thực tiễn đời sống báo chí Việt Nam hiện đại. 
Nếu thực hiện thành công, đề tài nghiên cứu này có thể dùng làm tài liệu tham 
khảo cho các nhà trường và các trung tâm có đào tạo về phát thanh trong cả nước. 
- Về thực tiễn: Đây là đề tài đầu tiên khảo sát một cách có hệ thống về chất 
lượng các chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực BSH, ĐBSCL. Với những cứ liệu 
thực tế phong phú, luận văn có thể cung cấp các dữ liệu cần thiết để các cấp lãnh đạo, 
quản lý có chủ trương, định hướng quản lý, lãnh đạo, phù hợp đối với hoạt động quan 
trọng này. 
Bức tranh thực tế sinh động về các chương trình phát thanh đài tỉnh BSH có thể 
tạo ra những so sánh cần thiết cho các đài ở khu vực này có cơ sở tham khảo, đối chiếu và 
vận dụng để nâng cao chất lượng chương trình của mình. 
Đồng thời, luận văn còn có thể cung cấp dữ liệu thực tế, tạo cơ sở cho việc 
nghiên cứu, xem xét để điều chỉnh, nâng cao chất lượng công tác tổ chức, điều hành, 
quản lý của lãnh đạo của các đài PT&TH không chỉ trong khu vực này mà trong toàn bộ 
ĐBSCL và trong cả nước. 
Việc nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tác giả luận văn có thể nâng cao 
kiến thức sau thời gian học cao học Báo chí tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 
8. Bố cục của luận văn 
Trong luận văn này, ngoài Mở đầu, Kết luận, những nội dung chính sẽ được trình 
bày trong 3 chương, 6 tiết, 79 trang. 
Chương 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 
LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT THANH CẤP TỈNH KHU VỰC BẮC SÔNG HẬU, ĐỒNG 
BẰNG SÔNG CỬU LONG 
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM, THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG 
LUẬN VĂN 
1.1.1. Một số thuật ngữ, khái niệm 
1.1.1.1. Thuật ngữ phát thanh và báo phát thanh 
Chúng ta đều biết báo chí nói chung bao gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền 
hình ( còn gọi là phát thanh, truyền hình) và các loại báo chí điện tử khác. Riêng báo phát 
thanh được hiểu như "một kênh truyền thông, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà 
đặc trưng cơ bản của nó là dùng thế giới âm thanh phong phú, sinh động để chuyển tải 
thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh, tác động vào 
thính giác của người nghe" [30, tr.51]. 
Các nước phương Tây thường chia phát thanh thành các loại: đài phát thanh 
thương mại, đài phát thanh quảng cáo, đài phát thanh giáo dục, đài phát thanh chính trị xã 
hội… Thông thường, mỗi nước đều có hệ thống phát thanh của nhà nước để thực hiện những 
nhiệm vụ công cộng, phục vụ cho các mục đích chính trị, xã hội của chính phủ. Người ta còn 
gọi đó là đài phát thanh quốc gia hay đài phát thanh công cộng. Quy mô và phạm vi ảnh 
hưởng của các đài phát thanh tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị của từng quốc gia cụ thể. Các 
đài phát thanh còn lại thuộc sở hữu tư nhân. Khuynh hướng chung ở các nước, phần lớn các 
đài phát thanh lớn đều tồn tại trong cơ cấu công ty hay tập đoàn truyền thông. Một số tổ chức 
tôn giáo, chính trị, xã hội cũng lập ra đài phát thanh. 
Ở Việt Nam, toàn bộ hệ thống phát thanh đều thuộc sở hữu nhà nước, do Chính 
phủ và Ủy ban nhân dân (UBND) các địa phương quản lý. Đài TNVN và các đài khu vực là 
đài phát thanh quốc gia. Các đài phát thanh địa phương bao gồm đài cấp tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương; đài cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, 
hợp tác xã, thị trấn, làng bản.... Riêng hai cấp huyện, thị và cấp xã, phường còn được gọi 
chung là: hệ thống đài cơ sở. 
1.1.1.2. Thuật ngữ về kỹ thuật phát thanh 
Về mặt kỹ thuật, trước đây người ta chia phát thanh thành hai loại AM và FM. 
AM (Amplitude Modulation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong phát thanh sóng 
dài, sóng trung và sóng ngắn. FM (Frequency Modulation) là kỹ thuật điều tần được áp 
dụng trong phát thanh sóng cực ngắn. 
Phần lớn các đài phát thanh AM có công suất máy phát lớn và tầm hoạt động xa 
hơn các đài FM. Tuy nhiên, chất lượng sóng của loại phát thanh này bị ảnh hưởng bởi 
nhiễu tĩnh. Đài FM phát sóng thẳng, hầu như không bị ảnh hưởng nhiều nên chất lượng 
tín hiệu rất tốt. Vì thế, nó truyền các chương trình âm thanh nổi tốt hơn các đài AM. Việc 
đầu tư cho các đài FM lại thấp. Tuy nhiên, đài FM có phạm vi phủ sóng nhỏ, chỉ thích 
hợp với các trung tâm đô thị lớn, các khu vực đông dân cư. Những năm 40 của thế kỷ 
XX, sự ra đời của sóng FM đánh dấu bước nhảy vọt thứ nhất với những ưu thế vượt trội 
so với AM. Chất lượng sóng và chi phí đầu tư, khai thác lại rẻ hơn, gọn nhẹ hơn. Để phát 
huy tối đa vùng phủ sóng và đảm bảo chất lượng, nhà sản xuất, quản lý phát thanh đã kết 
hợp hài hòa giữa sóng trung, sóng ngắn và cực ngắn FM. 
Ngày nay, các nước trên thế giới và ở Việt Nam đã chuyển sang sử dụng phát 
thanh số DAB (Digital Audio Broadcasting). Đây là bước nhảy vọt thứ hai của công nghệ 
phát thanh. Những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển của phát thanh số đã đưa kỹ thuật 
phát thanh sang một giai đoạn mới. 
Hiện nay, phát thanh số DAB đã đi vào cuộc sống. Phát thanh số đã khắc phục 
được những nhược điểm cơ bản của phát thanh truyền thống, như: can, nhiễu, méo, pha 
đinh trong truyền sóng, giao thoa. Đặc biệt là giải quyết được tình trạng chen chúc của 
giải tần số. Phát thanh số vượt trội hẳn về chất lượng âm thanh, hơn hẳn FM stereo và 
tương đương với đĩa CD. Phát thanh số còn có khả năng truyền dữ liệu bằng văn bản, 
ảnh, hình. Máy thu thanh số trở thành phương tiện đa năng giúp con người tiếp nhận 
nhiều thông tin khác nhau. "Có thể nói, phát thanh số là phát thanh có chất lượng sóng 
cao, không chỉ đáp ứng yêu cầu thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thưởng thức, giải trí 
của con người ngày càng cao, ngày càng khó tính" [30, tr.16]. 
Tính đến năm 2000, trên thế giới có 30 nước phát thử và thường xuyên phát 
thanh kỹ thuật số. Singapore là nước đi đầu về phát thanh số ở khu vực Châu Á. Tuy 
nhiên, có hai vấn đề nan giải của phát thanh số trên thế giới là lựa chọn tiêu chuẩn thích 
hợp và sản xuất radio với giá