Trong những năm vừa qua, cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ
thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc, đóng góp tích cực vào
việc kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhưng đồng thời, nền kinh tế vận hành theo c ơ chế thị trường, cùng với việc tạo ra
triển vọng và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
ngân hàng nói riêng, thì còn nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
Đối với hệ thống Ngân hàng, rủi ro tín dụng như là vật cản trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Tháo gỡ những khó kh ăn và hướng tới mục tiêu tối đa hoá
l ợi nhuận được xem là chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại
khoảng 80- 95% lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong lĩnh vực tín
dụng, hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là chỉ tiêu tiên quyết
đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt động Ngân hàng. Khi hiệu quả cho vay đạt ở
mức cao sẽ tạo ra động lực cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cùng hoạt
động sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, khi đồng vốn tín dụng không được
sử dụng tốt sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không ổn định và suy
yếu.
Chất lượng tín dụng hiện nay đang là mối quan tâm không chỉ đối với nhà quản
lý điều hành Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài"Nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân".
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về Ngân hàng thơng mại, làm rõ vai trò
của tín dụng trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại, từ đó cho thấy tầm quan
trọng của chất lượng tín dụng và ý nghĩa của công tác nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2862 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển quận Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận
Thanh Xuân
Lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ
thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc, đóng góp tích cực vào
việc kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhưng đồng thời, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, cùng với việc tạo ra
triển vọng và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
ngân hàng nói riêng, thì còn nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
Đối với hệ thống Ngân hàng, rủi ro tín dụng như là vật cản trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Tháo gỡ những khó khăn và hướng tới mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận được xem là chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại
khoảng 80- 95% lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong lĩnh vực tín
dụng, hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là chỉ tiêu tiên quyết
đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt động Ngân hàng. Khi hiệu quả cho vay đạt ở
mức cao sẽ tạo ra động lực cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cùng hoạt
động sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, khi đồng vốn tín dụng không được
sử dụng tốt sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không ổn định và suy
yếu.
Chất lượng tín dụng hiện nay đang là mối quan tâm không chỉ đối với nhà quản
lý điều hành Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài"Nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp& phát triển quận Thanh Xuân".
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về Ngân hàng thơng mại, làm rõ vai trò
của tín dụng trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại, từ đó cho thấy tầm quan
trọng của chất lượng tín dụng và ý nghĩa của công tác nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng.
Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT
quận Thanh Xuân để thấy được những mặt mạnh cần phát huy, đồng thời phát hiện
những vấn đề còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân cơ bản của vấn đề để có những giải
pháp nhằm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, đảm bảo tính an toàn và
hiệu quả cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo &PTNT quận Thanh Xuân
" được kết cấu làm 3 chương, ngoài lời nói đầu và kết luận:
Chương I: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn quận Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại
NHNo&PTNT quận Thanh Xuân.
Chương I: tổng quan về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển
của ngân hàng; đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy
nền kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng.
Cùng với việc phát triển của nền kinh tế đòi hỏi việc trao đổi giữa đồng tiền của khu vực
này với khu vực khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác- đây là tiền đề cho nghiệp vụ
thu đổi ngoại tệ.
Sự không thường xuyên và cùng một lúc giữa người gửi tiền và người lấy tiền ra
đã tạo ra số dư trong két của các nhà buôn tiền. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn
tiền có thể sử dụng tam thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Bằng cách
cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng thu hút nhiều
tiền gửi vào, là điều kiện để mở rộng cho vay. Thuật ngữ ngân hàng ngày càng gần gủi
với người dân đặc biệt những người có nhu cầu vay tiền và tạm thời dư tiền. Nhưng chưa
có phân định giữa ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng phát hành.
Đến cuộc khủng hoảng nền kinh tế 1929-1933 các quốc gia thấy rằng cần phải
quản lý việc phát hành tiền một cách chặt chẽ hơn. Các quốc gia lần lượt quốc hữu hoá
các ngân hàng phát hành hoặc thành lập các ngân hàng phát hành thuộc sở hữu Nhà
nước... Từ đó khái niệm Ngân hàng Trung Ương và Ngân hàng thương mại được tách
bạch rõ ràng.
Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm về ngân ngân hàng nói chung và sau đó là về ngân
hàng thương mại.
Có rất nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng, có thể thông qua chức năng, các
dịch vụ hoặc vai trò của chung thực hiện trong nền kinh tế.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Một cách tiếp cận dựa khác trên các hoạt động chủ yếu- theo luật các tổ chức tín
dụng của nước Việt Nam:"Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán".
Ngân hàng thương mại(NHTM) cũng thực hiện kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Như vậy, ta có thể hiểu được NHTM là:"NHTM là loại hình tổ chức tín dụng
thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác có liên quan".
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn:
Đây là hoạt động đặc trưng của NHTM, Ngân hàng có thể huy động vốn dưới
các hình thức sau đây:
- Huy động tiền của các doanh nghiệp và dân cư: Ngân hàng được nhận tiền gửi
dưới các hình thức.
Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất
kỳ lúc nào, bộ phận tiền gửi này bao gồm: Tiền gửi thanh toán được bảo quản trên tài
khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có quy định cụ thể thời gian rút tiền của
khách hàng. Nó có thể là tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp hay các tầng lớp dân
cư trong xã hội.
- Huy động vốn trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng:
NHTM có thể huy động vốn trên thị trường liên Ngân hàng dưới các hình thức
tiền gửi có kỳ hạn hoặc ký hợp đồng vay vốn có đảm bảo bằng tài sản. NHTM có thể
vay vốn NHTW mà cụ thể là xin tái cấp vốn và từ các tổ chức tài chính, tín dụng quốc
tế.
- Huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá:
Cùng với việc huy động tiền gửi, Ngân hàng còn huy động vốn bằng các hình
thức khác: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu
- Huy động vốn bằng các hình thức khác:
Ngoài ra NHTM còn huy động các nguồn vốn từ các nguồn khác như: vốn trong
thanh toán và vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý.
1.1.2.2. Mua, bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi(mua,
bán) ngoại tệ: Mua, ban một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
1.1.2.3. Cho vay:
Đây là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận của NHTM. NHTM cho vay đối với
các đơn vị kinh tế nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị được liên
tục, công nghệ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng được đầu tư đổi mới nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Hoạt động này thường được NHTM thực hiện dưới các hình thức sau đây:
- Cho vay thương mại
- Cho vay tiêu dùng
- Tài trợ cho dự án
1.1.2.4. Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản
khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy
tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng.
1.1.2.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng.Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh
toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy
tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng mang giấy đến ngân hàng
sẽ nhận được tiền- đó gọi là dịch vụ cung cáp tài khoản cho khách hàng. Dịch vụ này
ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi và tiện ích đối với khách hàng cũng như
ngân hàng
1.1.2.6. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng và uy
tín cũng như kinh nghiệm nên nhiều ngan hàng đã cung cấp các dịch vụ quản lý ngân
quỹ của khách hàng, quản lý thu chi và tiến hành đầu tư phần thặng dư tạm thời nhàn
rỗi.
1.1.2.7. Tài trợ các hoạt động của Chính Phủ
Ngân hàng có khả năng huy động lớn và cho vay lớn vì thế trở thành trọng tâm
của Chính phủ khi có nhu cầu chi tiêu tạm thời hoặc lớn. Chính phủ các nước đều
muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành
quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng, ngân hàng cam kết thực hiện
với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân
hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền
gửi mà ngân hàng huy động được.
1.1.2.8. Bão lãnh:
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát
triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá
và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.2.9. Cho thuê trang thiết bị trung và dài hạn(leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản
xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua. Rất
nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc
cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách
hàng thuê.
1.1.2.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều
uy tín cung như kinh nghiệm. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang
cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư…Thậm chí,
các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác di chúc, quản lý tài sản cho khách
hàng đã qua đời. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài
chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp…
1.1.2.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Đây là dịch vụ ngân hàng mà ngân hàng bán các nghiệp vụ mua bán chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
khác. Ngày nay một số ngân hàng thành lập, tổ chức ra các công ty chứng khoán để
cung cấp dịch vụ môi giới.
1.1.2.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàngbị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm
hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con người, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn
với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
1.1.2.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho
các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của hoạt động tín dụng đối với NHTM
Sau gần hai mươi năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng rõ rệt, đời
sống cải thiện, đưa lại sự phồn vinh cho đất nước. Để đạt được những kết quả đó phải kể
đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín
dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi
như là một công cụ cấp phát thay ngân sách. Vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần
vốn sản xuất thì không có, nhưng có nơi lại ứ đọng vốn. Ngày nay khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như
một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu quả, giúp cho
nền kinh tế ngày một phát triển. Ta tìm hiểu về vai trò của tín dụng:
1.2.1.1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi
trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển
kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người
gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn tiền tệ phân tán trong xã hội thành
nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các ngân hàng
thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của các
ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch vụ của
ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là
hoạt động cho vay của ngân hàng. Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải
chăng là vốn tự có của ngân hàng. Ơ đây các ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức
kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách
hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể"thừa" vốn có cơ hội không
những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập(thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn, tín dụng
ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống.
Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về
vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, đẩy
mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã góp
phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc
đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý kiến
đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử
dụng vốn của doanh nghiệp...
Như vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
1.2.1.2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở
rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển:
Có thể nói tín dụng ngân hàng là một nguồn cơ bản của các doanh nghiệp nhằm mở
rộng tái sản xuất. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng
sản xuất. Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu
động của doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng, tín dụng ngân hàng sẽ góp phần
hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho các doanh nghiệp. Muốn vậy các ngân hàng cần phải
làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược
kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy
các ngân hàng mới có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp,
góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.
1.2.1.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu
thông tiền tệ:
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng đã huy
động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ
phận tiền tệ. Như vậy, NHTM đã can thiệp vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ. Mặt khác,
nhằm kiểm soát việc tạo tiền của NHTM, Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh thông
qua các công cụ của mình. Và kết quả là lượng tiền trong lưu thông có sự thay đổi. Do đó
sự vận động của vốn tín dụng là phải dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ
chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa, quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc thanh toán
không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên thị trường
mà không có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này
đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát - một vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu khi
có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh.
Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.1.4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch
toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay, Ngân hàng
có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế
hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay ngân hàng còn căn cứ vào tình
hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục
cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong
đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn
vay được vốn các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những
công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, Ngân hàng có khả năng thu
hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc
lẫn lãi. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy
đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu
quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị. Trong trường hợp các đơn vị
vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín
dụng. Do vậy, các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu
quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo
ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn
vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo
doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng.
1.2.1.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành
kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển:
Mục tiêu hoạt động của các Ngân hàng là an toàn và sinh lời. Vì thế khi cung cấp
tín dụng Ngân hàng luôn phải cân nhắc những rủi ro sao cho đó là tối thiểu. Nhưng không
phải tất cả các chủ thể có nhu cầu vay đều được Ngân hàng đáp ứng, bởi để tránh rủi ro
tín dụng các Ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư vào các đơn vị có đủ các điều kiện.
Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước ta hiện nay phần lớn dân số sống bằng nông
nghiệp. ở hầu hết các tỉnh miền núi, nông thôn vấn đề đưa máy móc vào nông nghiệp
còn rất hạn chế. Vì vậy, thông qua công tác tín dụng, Nhà nước cần tập trung vào phát
triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều
k