Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn
lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại,
cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy
rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó
nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu
hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột
phá.
Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao
động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì,
chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học -công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát
triển nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển
theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết
định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các
lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát
triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn
nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền
kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về
các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và
xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh
trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực
là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
180 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3587 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh
vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn
lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại,
cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy
rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó
nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu
hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột
phá.
Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao
động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì,
chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học -
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát
triển nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển
theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết
định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các
lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát
triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn
nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền
kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về
các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và
xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh
trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực
là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư
duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này được khẳng định
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã khẳng
định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đồng thời Nhà nước
đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đã góp phần duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao và ổn định. Trong quá trình phát triển,
tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh và động
lực to lớn để phát triển đất nước, đảm bảo đi tắt đón đầu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định
sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Nguồn nhân lực nếu
được khai thác hiệu quả trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là giải
pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH trong tương lai.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã làm thay đổi cơ bản KT - XH, các địa phương
thuộc miền Đông Nam bộ cũng nằm trong xu thế vận động phát triển đó. Miền Đông Nam
bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh
và thành phố Hồ Chí Minh, đây là vùng kinh tế phát triển năng động nhất của các tỉnh phía
Nam và cả nước. Vùng ĐNB nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - đầu tàu trong
phát triển của cả nước; là vùng duy nhất hội đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công
nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập; đặc biệt phát triển công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa
dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng;
nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao,… phát triển các ngành kinh tế hiện đại.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ
hội mở ra thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Trong đó, nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh
cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Phát triển Vùng ĐNB đến 10, 20 năm nữa chắc chắn sẽ
có thay đổi lớn như dân số phát triển, hạ tầng kinh tế kỹ thuật mở rộng, hình thành và phát
triển các cụm kinh tế kỹ thuật và khoa học công nghệ… tạo ra nhiều cơ hội mới cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, Vùng ĐNB rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao
để đáp ứng yêu cầu này.
Mặt khác, hiện nay nguồn nhân lực của Vùng ĐNB chưa được chuẩn bị tương xứng
với yêu cầu CNH, HĐH. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển giữa
các địa phương trong vùng; chưa dự báo được yêu cầu nhân lực cho từng ngành kinh tế
trong chiến lược phát triển KT - XH của cả Vùng trong dài hạn.
Tình trạng này cần phải khắc phục nhanh, vì nếu không nó sẽ không phát huy được
tiềm năng to lớn và triển vọng tăng trưởng cao từ chất lượng nguồn nhân lực của Vùng.
Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu KT - XH của Vùng ĐNB trong giai đoạn
tới. Các quyết sách cho những vấn đề còn tồn tại cần đặt trong một chỉnh thể chiến lược
dài hơi hơn là những giải pháp rời rạc, tình huống. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu lựa
chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” để nghiên cứu lúc này có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến
khả năng thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH và hội nhập của nước ta, đặc biệt là
đòi hỏi của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Các công trình nghiên cứu
trong nước tập trung theo các vấn đề sau đây:
3.1. Quan niệm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực.
- “Con người và phát triển con người”, Hồ Sĩ Quý, NXB Giáo dục, Hà Nội 2007.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, cuốn sách nghiên cứu khả kỹ về khoa học con
người, làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nguồn nhân lực.
- “Quan điểm của Đảng ta về: Bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có
tài, có đức và thành đạt”, Vũ Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 12 (187) 12-2006. Bài viết
tập trung luận giải sự đúng đắn quan điểm của Đảng ta về doanh nhân, là lực lượng đảm
đương vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế, tạo động lực và để xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập.
- “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức của nước ta hiện
nay”, Đặng Hữu, Tạp chí Cộng sản, số 4/2005. Công trình nghiên cứu khá kỹ về yêu cầu
của CNH, HĐH và sự phát triển kinh tế tri thức, do đó cần phải có sự đổi mới trong giáo
dục. Tác giả nêu ra 3 nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục nước ta là: Nâng cao mặt bằng dân
trí; Đào nguồn nhân lực chất lượng cao thích nghi quá trình đổi mới và phát triển nhanh,
đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH dựa vào tri thức; Phải chăm lo bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài.
- “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam”, Vũ Bá Thể, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2005. Cuốn sách phân tích vấn
đề trên trong 3 chương. Chương 1, hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến nguồn nhân
lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò,…. Chương 2, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở
nước ta: ưu điểm, hạn chế, xu hướng phát triển,…. Chương 3, xuất phát từ quan điểm của
Đảng và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, nhóm tác giả đề xuất một số giải
pháp phát huy nguồn nhân lực ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu trên phân tích khá sâu những đặc điểm, yêu cầu của quá
trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên,
các công trình này chỉ dừng lại ở tính khái quát, lý luận.
3.3. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
- “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”, Nguyễn Đắc Hưng, NXB CTQG, Hà
Nội 2007. Cuốn sách tập trung giới thiệu những phẩm chất cần có của nhân tài, kinh
nghiệm đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha ta và một số quốc gia trên thế giới, những
nội dung cơ bản về phát triển nhân tài.
- “Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực”,
Nguyễn Hữu Lam, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Tác giả phân tích các lý thuyết về
mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có giá trị tham khảo
phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
- “Một số vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Vũ Thành Hưng, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, (số 90) 12/2004. Nội dung công trình phân tích những thành tựu và
hạn chế vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của nước ta, từ đó đề xuất một số kiến nghị nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào tạo.
Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được các công trình trên đi
sâu phân tích. Tuy nhiên, hầu hết chưa đưa ra mô hình giáo dục - đào tạo phù hợp với điều
kiện hội nhập của Việt Nam, đáp ứng sự phát triển các ngành kinh tế hiện đại.
3.4. Phát triển nguồn nhân lực trong các loại hình doanh nghiệp.
- “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh”, Trần Kim Dung, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Công trình phân
tích và chỉ ra những bất cập trong hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua số liệu điều tra 120 cá nhân về hoạt
động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và 558 cá nhân về quan điểm của nhân viên trong
các doanh nghiệp.
- “Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước”, Lê Thị Ngân, Nguyễn
Huy Oánh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/2004. Công trình nghiên cứu thực trạng nguồn
nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân, từ đó xác định những giải
pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này.
- “Thực trạng lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam”, Lê Thị Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị số 12/2003. Tác giả phân tích những đặc
điểm của lao động trong khu vực FDI ở Việt Nam, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng lao động góp phần thu hút FDI ở Việt Nam.
Các công trình nêu trên đề cập đến những nội dung phát triển nguồn nhân lực ở cấp
độ doanh nghiệp, chưa nghiên cứu đến sự phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội
cho một vùng kinh tế.
3.5. Vai trò của Nhà nước, thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực
- “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp”. Nguyễn Thị Thơm,
NXB CTQG, Hà Nội 2006. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường lao
động, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Nội dung cuốn sách cung cấp cho người
đọc bức tranh tổng thể về thị trường lao động nước ta hiện nay.
- “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội”, Bùi Văn Nhơn, NXB Tư Pháp,
Hà Nội 2006. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý thuyết những nội dung cơ bản trong quản lý
phát triển nguồn nhân lực như: phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực , thị trường
lao động, các chính sách,…
- “Thị trường lao động; Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt
Nam”, Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 308 (1/2004). Tác giả phân tích
khả kỹ những nội dung liên quan đến thị trường lao động như: Khái niệm thị trường lao
động; Bản chất của thị trường lao động; Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao
động; Ý nghĩa của thị trường lao động và cuối cùng tác giả phân tích thực trạng thị trường
lao động ở Việt Nam, rút ra một số đặc điểm chủ yếu của thị trường lao động.
Các công trình đề cập tương đối toàn diện vai trò của Nhà nước trong việc phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại
những vấn đề chung và chưa đề cập nhiều đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong điều kiện hội nhập.
3.6. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nguyễn Hữu Dũng, Nxb
Lao động - Xã hội, 2003. Cuốn sách trình bày hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân
lực, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong
quá trình phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020.
- “Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải pháp nâng cao”, Nguyễn Thị
Thơm, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2003. Công trình đánh giá hiệu quả sử dụng lao
động ở nước ta trên các nội dung: mức độ toàn dụng lao động thấp, việc bố trí và sử dụng
lao động còn bất hợp lý, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp, từ đó đưa ra
những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta.
Nhìn chung các công trình trên chủ yếu tập trung vào nội dung định tính để đánh
giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, chỉ đề cập đến một số chỉ số cơ bản và đặt ra nhiều
nội dung cần tiếp tục nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu đặt ra, Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: phân tích thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia và phương pháp
phỏng vấn sâu.
a. Phân tích thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp
định lượng để tìm ra các kết luận khoa học.
b. Phương pháp chuyên gia: Tổ chức hội thảo trong quá trình thực hiện nhằm tìm kiếm
sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp, kiến
nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một số nhà nghiên cứu.
3. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu chung của đề tài là xây dựng những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn
về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ
hội nhập (về khái niệm, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, các tiêu chí
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, xu hướng phát triển của nguồn nhân lực), những vấn
đề đang đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất hệ thống các quan điểm, giải
pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh Vùng ĐNB trong thời kỳ hội nhập.
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài:
- Hệ thống lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn miền Đông Nam bộ,
xác định những hạn chế và nguyên nhân.
- Xây dựng những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền
Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập.
4. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực của Vùng ĐNB từ năm 2000
trở lại đây. Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực,
trí lực và phẩm chất của người lao động. Đề tài nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực trên
3 nội dung cơ bản:
- Giáo dục - đào tạo và dạy nghề;
- Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng;
- Vấn đề nghèo đói và thu nhập.
Đề tài được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và nâng cao nguồn nhân lực trong quá trình
CNH, HĐH và hội nhập
Chương 2: Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực miền Đông
Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người
Những thành tựu trong nhận thức về con người mà loài người đạt được ở thời đại
ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân loại qua hàng nghìn
năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin có
tính chất quyết định, tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Ngược dòng lịch sử nghiên cứu về con người có thể nhận thấy: thời cổ đại, do hạn
chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp kém, khoa học chưa
phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính chất thần
bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là nô tỳ" của thần học, các quan niệm về con
người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của
Thượng đế, không có khả năng làm chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục Hưng và Khai
Sáng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần dần thắng thế ở châu Âu
đã mở ra một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con
người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới giải phóng con người khỏi thần
học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh hạn hẹp, thiếu
tính hệ thống.
Như vậy, nghiên cứu những quan niệm về con người trước khi chủ nghĩa Mác ra đời,
chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Các nhà triết học trước Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người từ
nhiều phương diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn chưa nhận
thức đúng đắn vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội, chưa đề ra được
những phương hướng, biện pháp nhằm giải phóng hoàn toàn con người.
- Phần lớn các học thuyết triết học trước Mác, khi quan niệm về con người thường
chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc bản thể vật chất
(chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa những yếu tố tự
nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con người.
- Khi xem xét con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết học trước
Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con người, coi con người như một thực thể
thụ động trước tác động của hoàn cảnh.
Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước
đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt
động thực tiễn để xem xét bản chất con người. Trong quan niệm của triết học Mácxít con
người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con
người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và
phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con người
được C. Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc: Bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội" 26, tr.11 . Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra
rằng bản chất con người không phải là trừ