Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một tài nguyên, một nguồn lực.
Bởi vậy, việc phát triển con người phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị
trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là
yếu tố chắc chắn nhất cho sự phồn vinh thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con
người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX, nhiều nước đã tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, hay
nói cách khác là thông qua việc phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với việc
phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh để đạt được
sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ
lao động kỹ thuật - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn lao động với chất lượng cao. Vận
mệnh của đất nước, tương lai phát triển, khả năng đi lên của Việt Nam đều phụ thuộc
vào chính bản thân con người Việt Nam. Vì vậy, để phát triển đất nước, chúng ta không
thể không quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề mà mỗi quốc gia đều phải quan
tâm chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển và tìm cách phát huy có hiệu quả trên con đường
phát triển văn minh tiến bộ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam
với yêu cầu ngày càng cao" nhằm bảo đảm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [41, tr. 65].
128 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5229 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Thanh Hóa
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một tài nguyên, một nguồn lực.
Bởi vậy, việc phát triển con người phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị
trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là
yếu tố chắc chắn nhất cho sự phồn vinh thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con
người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX, nhiều nước đã tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, hay
nói cách khác là thông qua việc phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với việc
phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh để đạt được
sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ
lao động kỹ thuật - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn lao động với chất lượng cao. Vận
mệnh của đất nước, tương lai phát triển, khả năng đi lên của Việt Nam đều phụ thuộc
vào chính bản thân con người Việt Nam. Vì vậy, để phát triển đất nước, chúng ta không
thể không quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề mà mỗi quốc gia đều phải quan
tâm chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển và tìm cách phát huy có hiệu quả trên con đường
phát triển văn minh tiến bộ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam
với yêu cầu ngày càng cao" nhằm bảo đảm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [41, tr. 65].
Cũng như cả nước, tỉnh Thanh Hóa chỉ có thể thực hiện thành công công nghiệp
hóa, hiện đại hóa khi phát huy được cao độ nguồn lực con người.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV (2001-2005)
đã đề ra nhiệm vụ sau: "Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng toàn diện,
cả về sức khỏe thể chất, trình độ học vấn, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tư tưởng
chính trị, đời sống văn hóa tinh thần…" nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh nhà. Căn cứ vào nhiệm vụ trên tỉnh Thanh Hóa phải lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Thanh Hóa có
thể trở thành một tỉnh có nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay không điều đó còn tùy
thuộc vào việc xây dựng và thực hiện chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Thanh Hóa vừa là vấn đề cấp thiết vừa căn bản và lâu dài đối với sự phát triển của tỉnh.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề " Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa " làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển lịch sử, do đó vấn
đề con người, đặc biệt là vấn đề nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự
quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư khai thác, phát huy có hiệu quả vai trò
nhân tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô Viết trước đây
đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của nhân tố con người.
Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô viết đi sâu vào nghiên cứu
mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân tố kinh tế, vật chất kỹ thuật trong cấu
trúc nền sản xuất xã hội. Công trình nghiên cứu của nữ viện sĩ GiaxlapxkaiA về công
bằng xã hội và nhân tố con người những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội
nghị khoa học giữa các nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm
1988, đã tập trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người
và phát triển kinh tế - xã hội.
ở nước ta các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên cứu vấn đề
con người. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà khoa học đi sâu nghiên
cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều
bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người là nguồn tài nguyên vô giá và sự cần thiết
phải đầu tư vào việc bảo toàn, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên này,
lấy đó làm đòn bẩy để phát triển kinh tế, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những bài viết, những công trình khoa học đó được đăng trên các sách báo, tạp chí, đó
là những bài viết về: "Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện
chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam" của nguyên Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu (đăng trên Tạp chí phát triển giáo dục 4/1998); "Tài nguyên con
người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Nguyễn Quang Du
(thông tin lý luận số 11/1994); "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" của GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn (Triết học số 2 - 1994); "Nguồn lực con
người, nhân tố quyết định của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm Ngọc
Anh (Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa đến
năm 2010 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của TS Bùi Sĩ Lợi (Nhà xuất bản
chính trị, quốc gia Hà Nội 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn Đình Hòa (tạp chí triết học số 1 -
2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta" (NXB
chính trị quốc gia Hà Nội 1996); "Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996); "Từ chiến lược phát triển giáo
dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực" (NXB Giáo dục - 2002)… Đặc biệt là
công trình khoa học cấp Nhà nước KX-05 "Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân
lực đầu thế kỷ XXI" (11/2003). Đề tài này có những công trình đáng chú ý như: "ảnh
hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển
con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI" của TSKH Lương Việt Hải;
"Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI" của TS Nguyễn Hữu Dũng; "Một
số những thay đổi của quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế trong cơ chế thị trường" của TS Vũ Hoàng Ngân…
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các
phương diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải
pháp để phát huy nguồn lực con người, từ giáo dục-đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi
mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta. Ngoài những công trình đó còn rất nhiều tác giả với những công trình nghiên
cứu khác đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song những công trình đi sâu, phân tích
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa chưa được đề cập
nhiều, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng trong việc thực hiện nâng cao chất
lượng, nguồn nhân lực ở Thanh Hóa.
Qua luận văn này tác giả hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé, bước đầu của
mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa, cũng như cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:
Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi
xác định mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích thực trạng của nguồn nhân lực
Thanh Hóa hiện nay mà đề xuất một số giải pháp cấp bách nhằm xây dựng nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm mácxít về vai trò của con người và nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất, quan niệm về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực và vai trò
của nó trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đánh giá tình hình dân số, thực trạng nguồn nhân lực và việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh
Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về lực lượng lao động của Thanh Hóa; không những
nghiên cứu về mặt số lượng mà còn tập trung nghiên cứu mặt chất lượng - yếu tố quyết
định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta, các quan điểm khoa học hiện đại về nguồn nhân lực.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn dịch, phân
tích và tổng hợp.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần hệ thống hóa những luận điểm nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và
phương pháp luận về nhân tố con người và nguồn nhân lực.
Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Thanh Hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu về xu hướng biến đổi của nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa. Đây là việc làm của tất
cả các cấp, các ngành của mọi người, của tỉnh và của cả Trung ương.
7. ý nghĩa thực tiến của luận văn
Góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống tại Thanh Hóa.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học
tập ở các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo, đồng thời
làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
1.1. Quan điểm mácxít về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực
1.1.1. Từ quan điểm mácxít về con người đến nhân tố con người và nguồn
nhân lực
* Quan điểm về con người
Các nhà khoa học và chính trị từ cổ chí kim, từ Đông đến Tây, trong suốt chiều
dài của lịch sử luôn coi con người là vấn đề trung tâm của thế giới, là trung tâm chú ý
của mọi thời đại. Song các nhà tư tưởng trước Mác đã giải thích con người một cách
phiến diện, không coi con người là vị trí trung tâm của quá trình hình thành phát triển
của nhân loại. Họ lý giải sai lầm về bản chất con người. Họ không thấy được bản chất
con người là một bản chất xã hội, không thấy được con người là một thực thể tự nhiên -
xã hội. Chỉ đến Mác và Ăng ghen thì việc nhận thức về con người mới có sự thay đổi về
chất so với trước. Mác đã xuất phát từ phạm trù thực tiễn để lý giải bản chất của con
người trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người và
những quy luật chi phối quan hệ đó. Cống hiến quan trọng của Mác là đã vạch ra được
những vai trò của các quan hệ xã hội trong những yếu tố cấu thành bản chất con người.
Theo Mác "Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng cố hữu của một cá nhân
riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội" [16 -11].
Bản chất con người là kết quả của sự tác động từ các nhân tố xã hội mà trước
hết là của hoạt động lao động sản xuất vật chất của đấu tranh xã hội của con người.
Thông qua quá trình này, con người cải tạo giới tự nhiên và xã hội, đồng thời cải tạo
chính bản thân mình. Như vậy, khi tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên sáng
tạo ra lịch sử, con người phát triển tư chất năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí… đó
là điều kiện để mỗi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới
mới. Họ là người sản xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấm nhuần một cách sâu sắc quan điểm của
Mác - Ăngghen về con người, và đã có những kiến giải rất sâu sắc về vấn đề con người.
Hồ Chí Minh không những nhận thức thấu đáo mà còn vận dụng và phát triển sáng tạo
quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định
sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc không tách rời nhau và đều nhằm
mục đích đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự nghiệp
giải phóng con người không phải là ai khác chính lại là con người, quần chúng nhân
dân, là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì "Võ luận việc gì cũng do con người làm ra
và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả" [56 -113].
Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con người, coi
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là nhân tố quyết định
sự thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến "sự nghiệp trồng
người", "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" tư tưởng chiến
lược về con người của Hồ Chí Minh đã và đang được Đảng ta từng bước thực hiện.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ khi
mới ra đời tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền, hòa quyện với tư
tưởng giải phóng con người. Thời kỳ đó, vấn đề con người được Đảng ta quan tâm
trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô lệ. Ngày nay, trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đề con người là vấn đề được Đảng ta quan
tâm hàng đầu. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã
khẳng định: "…Sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới"[15 - 6]. Phát triển con người, thực chất là mô hình
con người phát triển toàn diện. Mục tiêu con người phát triển toàn diện - hài hòa không
phải đến thời kỳ đổi mới mới được Đảng ta đặt ra, mà là mục tiêu xuyên suốt của Đảng
cộng sản Việt Nam.Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, cách nhìn toàn diện về phát triển
con người của Đảng đã xây dựng nên quan điểm phù hợp với xu thế đi lên của thời đại:
Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để con người thực sự trở thành động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì
chúng ta phải phát huy được nhân tố con người.
* Quan niệm về nhân tố con người
Nói tới nhân tố con người là nói tới vai trò, vị trí của con người trong tổ chức
quản lý xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của nó trước hết là sản xuất vật chất. Nói
tới nhân tố con người cũng có nghĩa nói đến tính chất, ý nghĩa của nó như là một động
lực quan trọng nhất trong các nhân tố có quan hệ với phát triển. Nhân tố con người là
một nhân tố xã hội, thể hiện sức mạnh tổng hợp của chủ thể người trong quan hệ với
khách thể là xã hội mà hoạt động thực tiễn của nó đem lại sự phát triển tiến bộ cho xã
hội.
Vậy, nhân tố con người là toàn bộ những dấu hiệu riêng có, những yếu tố,
những mặt nói lên vai trò của con người như là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Nhân tố con người bao hàm toàn bộ tư chất, năng khiếu,
tài năng, phẩm chất ý chí của con người để nó đóng được vai trò là chủ thể hoạt động
sáng tạo xây dựng xã hội.
Nhân tố con người bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, đó là một chỉnh thể các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng
liên kết chặt chẽ với nhau, mà tác động qua lại và hoạt động của các giai tầng ấy bảo
đảm cho sự phát triển tiến bộ của xã hội.
Thứ hai, nhân tố con người được hiểu là những tiêu chí về số lượng, chất lượng,
nói lên khả năng của con người, của cộng đồng người như là một tiềm năng cần bồi
dưỡng, cần khai thác và phát huy. Đó là tiêu chí về số lượng lao động, tình hình sức
khỏe, trình độ học vấn, nghề nghiệp chuyên môn.
Thứ ba, đó là những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con người,
những tiêu chí này nói lên mức độ, khả năng sáng tạo của cá nhân trong hệ thống các
quan hệ xã hội, gồm các năng lực chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo, lẫn thái độ lao
động, ý thức xã hội chính trị và lập trường xã hội của giai cấp công nhân.
Các nội dung trên của nhân tố con người có quan hệ biện chứng với nhau. Việc
phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tính đến
đầy đủ những nội dung đó. Những sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xã hội trong thời
gian qua, ở các mức độ khác nhau đều có nguyên nhân từ việc không tính đến một cách
đầy đủ những nội dung của nhân tố con người. Do vậy, trên thực tế đã dẫn đến không
phát huy được nguồn lực con người. Vì vậy, việc nhận thức một cách toàn diện những
nội dung của nhân tố con người có liên quan trực tiếp đến việc xác định một tổng hợp
những điều kiện, biện pháp thực tiễn mà quá trình quản lý kinh tế, xã hội phải thực hiện
nhằm nâng cao và phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người chính là quá
trình đào tạo, bồi dưỡng làm tăng nhân tố con người về thể lực, trí lực, phẩm chất, đạo
đức... Là quá trình khai thác yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu nhằm phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Nhân tố con người không khai thác không phát huy được là lãng phí lớn nhất.
Vì vậy, trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, Đảng ta phải từng bước cụ thể hóa đường
lối chính sách nhằm khơi dậy và phát huy nhân tố con người.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người, vốn người. Hiện nay có
nhiều quan niệm về khái niệm nguồn nhân lực.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động thương binh và xã hội:
"Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia,
suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là
nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội"[5-13].
Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất
lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực được hiểu
là:
- Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực (HumanRersources) là tổng thể các tiềm
năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã
được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể [72-22].
Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn
lực của quốc gia, như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn tài chính, nguồn lực trí
tuệ ("chất xám")… Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu tạo
thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội, ta có thể biểu đạt như sau:
N
g
u
ồ
n
lự
c
tà
i c
h
ín
h
N
g
u
ồ
n
n
h
ân
lự
c
N
g
u
ồ
n
lự
c
vậ
t
ch
ất
Phát triển
kinh