Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không thể không nói tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Nước ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập. Tín dụng là cho vay, là đầu tư vào những phương án, dự án cụ thể nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cho chủ phương án, dự án. đồng thời đem lại hiệu quả về mặt xã hội. Đó là mong muốn của người cho vay, cũng như người đi vay, nhưng làm thế nào để đạt được mục đích đó, quả thật là một vấn đề không hề đơn giản. Hơn nữa tín dụng ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm, không rập khuôn, không máy móc, nhưng cũng cần phải đảm bảo tính nguyên tắc cho nó phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể theo đúng pháp luật và cơ chế hiện hành - ông Trần Văn Thuận, làm việc tại ngân hàng công thương Bến Thuỷ với vấn đề trao đổi: “Một số suy nghĩ về đổi mới và nâng cao chất lượng tín dụng”. Do đó, tín dụng trong điều kiện nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Nhận thức được điều đó, cùng với những kiến thức có được trong quá trình thực tập tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Ninh Kiều” thông qua việc phân tích, đánh giá tình hình tín dụng của ngân hàng từ đó đưa ra các biện pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3598 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
(((((((((((((
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NINH KIỀU
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện
PHAN THÁI BÌNH TRẦN CẨM TÚ Mã số SV: 4043488 Lớp: Tài chính – ngân hàng 2
Khóa: 30
Cần Thơ – 2008
LỜI CẢM TẠ
(((((((((((((((((((((
Trải qua 4 năm trên giảng đường đại học, những điều còn đọng lại trong em giờ đây là kiến thức làm hành trang trên con đường sắp tới, là sự chỉ bảo, giảng dạy tận tình của quý thầy, cô khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh trường Đại học Cần Thơ. Đồng thời trong thời gian vừa qua, em được sự giới thiệu của quý thầy cô và sự đồng ý của Ban lãnh đạo NHNN & PTNT Ninh Kiều em đã được tiếp nhận thực tập tại NHNN & PTNT Phòng giao dịch An Bình.
Thời gian thực tập tại NHNN & PTNT Phòng giao dịch An Bình là cơ hội để em có thể tiếp xúc với thực tế, mở rộng thêm kiến thức của mình bên cạnh những kiến thức được trang bị trên ghế nhà trường. Nhờ sự hướng dẫn, sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô và các cô, chú, anh, chị trong Ngân hàng đã giúp em hoàn thành tốt đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Ninh Kiều”.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh của trường Đại học Cần Thơ, những người đã tận tình giảng dạy, truyền dạy cho em những kiến thức quý báu trong thời gian qua. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy Phan Thái Bình, là người thầy trực tiếp hướng dẫn giúp em hoàn thành luận văn của mình. Đồng thời, em xin gửi lời cám ơn đến các cô, chú, anh, chị tại NHNN & PTNT Ninh Kiều và phòng giao dịch An Bình đã hết lòng giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại ngân hàng.
Cuối cùng em gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến quý thầy, cô khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh trường Đại học Cần Thơ; các cô, chú, anh, chị tại NHNN & PTNT Ninh Kiều và phòng giao dịch An Bình. Chúc NHNN & PTNT Ninh Kiều ngày càng phát triển mạnh hơn nữa, xứng đáng với thương hiệu “Agribank mang sự phồn thịnh đến với khách hàng”.
Trân trọng kính chào
Cần Thơ, ngày 9 tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Trần Cẩm Tú
LỜI CAM ĐOAN
(((((((((((((((((((((
Tôi cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Ngày …. tháng …. năm …
Sinh viên thực hiện
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
((((((((((((((((((((((((((((
Ngày …. tháng …. năm …
Trưởng phòng
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
((((((((((((((((((((((((((((((
Ngày …. tháng …. năm …
Giáo viên phản biện
(ký và ghi họ tên)
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không thể không nói tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Nước ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu nhập. Tín dụng là cho vay, là đầu tư vào những phương án, dự án cụ thể nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cho chủ phương án, dự án... đồng thời đem lại hiệu quả về mặt xã hội. Đó là mong muốn của người cho vay, cũng như người đi vay, nhưng làm thế nào để đạt được mục đích đó, quả thật là một vấn đề không hề đơn giản. Hơn nữa tín dụng ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm, không rập khuôn, không máy móc, nhưng cũng cần phải đảm bảo tính nguyên tắc cho nó phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể theo đúng pháp luật và cơ chế hiện hành - ông Trần Văn Thuận, làm việc tại ngân hàng công thương Bến Thuỷ với vấn đề trao đổi: “Một số suy nghĩ về đổi mới và nâng cao chất lượng tín dụng”. Do đó, tín dụng trong điều kiện nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Nhận thức được điều đó, cùng với những kiến thức có được trong quá trình thực tập tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Ninh Kiều” thông qua việc phân tích, đánh giá tình hình tín dụng của ngân hàng từ đó đưa ra các biện pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.1.2 Căn cứ khoa học và thực tiễn
Qua quá trình nghiên cứu, tôi đã đọc qua các tài liệu, sách báo có liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng và đã được tham khảo đề tài tiểu luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Hồng Yến lớp Ngân hàng 4 với đề tài “Phân tích hoạt động tín dụng và các biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Ninh Kiều”. Đề tài này tập trung nghiên cứu tình hình tín dụng của ngân hàng qua 3 năm 2003 – 2005 mà chủ yếu là tập trung phân tích tình hình tín dụng đối với hộ sản xuất nông nghiệp tại NHNo & PTNT Ninh Kiều. Như đã đề cập ở phần sự cần thiết nghiên cứu đề tài nhận định của ông Trần Văn Thuận, làm việc tại ngân hàng công thương Bến Thuỷ với vấn đề trao đổi: “Một số suy nghĩ về đổi mới và nâng cao chất lượng tín dụng” là: “tín dụng ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm, không rập khuôn, không máy móc, nhưng cũng cần phải đảm bảo tính nguyên tắc cho nó phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể theo đúng pháp luật và cơ chế hiện hành”. Vì vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng – nay đã trở thành thành phố trực thuộc trung ương với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội thì vấn đề tín dụng ngày càng trở nên quan trọng. Vấn đề đặt ra là làm sao để đẩy mạnh hoạt động tín dụng trong giai đoạn hiện nay cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội cũng như khả năng đáp ứng tín dụng của ngân hàng NN và PTNT Ninh Kiều. Do đó em quyết định chọn đề tài này với việc phân tích tín dụng của ngân hàng trong 3 năm 2005 - 2007 qua đó thấy được tình hình tín dụng của ngân hàng, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình phát triển, những biến động kinh tế có liên quan đến hoạt động tín dụng trong những tháng đầu năm 2008 để đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng cho phù hợp với điều kiện cũng như kế hoạch của ngân hàng trong năm 2008 và trong những năm sắp tới.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Hiện nay, hoạt động dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Cần Thơ vẫn còn nhiều hạn chế về hình thức cấp tín dụng, về tính đa dạng của các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là mức độ an toàn và khả năng mở rộng tăng trưởng tín dụng. Trong khi đó, yêu cầu về vốn, về chất lượng dịch vụ tín dụng ngày càng cao, áp lực cạnh tranh và hội nhập ngày càng lớn.Vì vậy, đề tài tập trung phân tích, đánh giá hoạt động tín dụng từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị hợp lý, thích ứng với môi trường kinh doanh, phù hợp với đặc điểm của ngân hàng, phát huy được các thế mạnh, khắc phục và hạn chế được các điểm yếu nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều.
Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu chung như trên, ta có các mục tiêu cụ thể như sau:
Khái quát chung về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều và mục tiêu, phương hướng kinh doanh của ngân hàng năm 2008.
Phân tích tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều qua 3 năm 2005 – 2007 theo thời hạn tín dụng.
Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều qua 3 năm 2005 – 2007.
Phân tích những biến động ảnh hưởng đến tình hình hoạt động tín dụng của NHNN & PTNT Ninh Kiều trong những tháng đầu năm 2008.
Đề ra các biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều trong những năm sắp tới theo mục tiêu phương hướng đề ra năm 2008 của ngân hàng và xu hướng phát triển chung của ngành ngân hàng theo phương châm “bền vững, an toàn và hiệu quả”.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Không gian nghiên cứu
- Luận văn này được thực hiện trên số liệu và tài liệu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều.
- Quá trình nghiên cứu đề tài được tiến hành tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều phòng giao dịch An Bình, cụ thể là phòng tín dụng. Trong thời gian thực tập kết hợp nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu cung cách làm việc, quy trình làm việc của ngân hàng.
Thời gian nghiên cứu:
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sống còn và thường xuyên của các ngân hàng. Để có thể phân tích được chính xác tình hình tín dụng của ngân hàng qua đó đưa ra các biện pháp phù hợp với sự phát triển của ngân hàng trong điều kiện hiện nay em đã chọn số liệu trong 3 năm gần đây nhất của ngân hàng từ 2005 – 2007 có thể phản ánh đầy đủ về tình hình tín dụng của ngân hàng qua đó làm rõ vấn đề cần nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động tín dụng của ngân hàng qua 3 năm 2005 – 2007 bao gồm tình hình huy động vốn, tình hình sử dụng vốn vay, thu nợ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Kiều thông qua các báo cáo tài chính của ngân hàng. Do đó đây cũng là các đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận
Để hiểu được đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHNo và PTNT Ninh Kiều” chúng ta cần phải nắm được một số vấn về sau qua sự tham khảo các tài liệu liên quan bao gồm giáo trình tài chính - tiền tệ, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại của Thạc sĩ Thái Văn Đại và sổ tay tín dụng của NHNo & PTNT Việt Nam:
2.1.1 Một số hiểu biết về vốn huy động
a. Khái niệm vốn huy động
Vốn huy động là phương tiện tiền tệ do ngân hàng thu nhận từ nền kinh tế, thông qua các nghiệp vụ ký thác để làm vốn cho hoạt động kinh doanh. Đối với nguồn vốn này ngân hàng chỉ được quyền sử dụng nó trong khoản thời gian nhất định chứ không có quyền sở hữu nó. Vì vậy, khi sử dụng ngân hàng phải dự trữ lượng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu chi trả cần thiết cho khách hàng.
b. Các hình thức huy động vốn thông thường
Tiền gởi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi hoàn toàn theo nguyên tắc khả dụng. Mục đích của người ký thác là muốn sử dụng các tiện ích của ngân hàng. Do đó, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào họ muốn và ngân hàng buộc phải thỏa mản các yêu cầu của họ.
Đặc điểm: lãi suất thấp, có sự biến động về số dư rất lớn, vì bất cứ lúc nào ngân hàng cũng thực hiện theo lệnh của chủ tài khoản. Do đó, nó ảnh hưởng nhất định đến kế hoạch cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch về thời gian và số lượng, nên trên các loại tài khoản này luôn có số dư, ngân hàng có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn cho vay, đồng thời giảm chi phí đầu vào của lãi suất.
Tiền gởi có kỳ hạn
Tiền gởi có kỳ hạn là bộ phận tiền của các tổ chức kinh tế, cá nhân tạm thời chưa sử dụng đến, với dự định sẽ thanh toán cho một khoản tiền hàng hóa, dịch vụ trong tương lai được gửi vào ngân hàng theo các kỳ hạn đã được thỏa thuận.
Quyền sở hửu tiền gửi định kỳ vẫn thuộc về người gửi tiền, còn quyền sử dụng trong thời gian chưa đáo hạn thì được quyền chuyển cho ngân hàng, ngân hàng phải trả lãi cho khoản tiền này.
Tiền gửi này chỉ được rút ra theo các kỳ hạn đã xác định. Tuy nhiên, trên thực tế nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải thỏa thuận và được sự đồng ý của ngân hàng thì người gửi được hưởng lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gởi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành được trích từ thu nhập của cá nhân đem gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn đồng vốn và hưởng lãi, nhầm tích lũy dần để thực hiện một nhu cầu chi tiêu nào đó trong tương lai. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: được rút ra bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người gởi tiền, nhưng bản chất của nó là tiền để dành hay cất trữ. Do đó, nó khác với tiền gửi thanh toán để chi trả cho người khác. Tiền gửi này được ngân hàng trả lãi nhưng với lãi suất thấp.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi có một kỳ hạn nhất định, người gửi được rút ra theo từng kỳ hạn thỏa thuận với ngân hàng và có mức lãi suất khác nhau, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Thông thường có các kỳ hạn như sau: 01 tháng, 02 tháng, 03 tháng, 06 tháng, 07 tháng, 09 tháng, 12 tháng, 13 tháng, 18 tháng, 24 tháng và trên 24 tháng.
Vốn huy động thông qua các chứng từ có giá
Đây là việc ngân hàng thương mại phát hành các chứng từ có giá như kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu ngân hàng để huy động vốn, lãi suất cố định hay lãi suất thời điểm là tùy thuộc vào ngân hàng phát hành. Có các đặc điểm:
Ngân hàng phát hành chứng từ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Chỉ được phát hành sau khi cân đối toàn bộ hệ thống giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, khi khả năng nguồn vốn toàn hệ thống không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn thì chỉ được phát hành nếu được Thống đốc ngân hàng Nhà nước chấp nhận.
Chứng từ có giá rất thuận tiện cho khách hàng trong việc chuyển nhượng, thế chấp. Đây là hình thức huy động vốn được khách hàng ưa thích nhiều nhất, vì nó rất đa dạng, phong phú tiện lợi cho người gửi. Bên cạnh đó, lãi suất hấp dẫn hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Hiện nay loại tiền gửi này ở các ngân hang thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn.
Đối với tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu thì yếu tố lãi suất quyết định vì thực chất đây là nguồn tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng với mục đích kiếm lời.
c. Nguyên tắc các khoản tiền gởi
- Tạo điều kiện cho khách hàng gửi vào thuận tiện, lấy ra dể dàng.
- Ngân hàng chỉ sử dụng theo tỷ lệ phần trăm tiền gửi để cho vay, phần còn lại làm quỹ dự trữ thanh toán.
- Ngân hàng chỉ thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới khoản tiền gửi của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc sự ủy nhiệm của chủ tài khoản. Trong trường hợp chủ tài khoản vi phạm kỷ luật thanh toán hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, buộc chủ tài khoản phải thanh toán thì ngân hàng tự động trích tài khoản tiền gửi đó để thanh toán các nghiệp vụ liên quan.
- Ngân hàng phải đảm bảo thanh toán an toàn, bí mật cho chủ tài khoản. Mua bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng.
- Khi phát sinh các khoản giao dịch liên quan đến tài khoản của khách hàng thì phải báo nợ, báo có cho chủ tài khoản.
d. Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động với ngân hàng thương mại
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa, các ngân hàng thương mại càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong việc giải quyết nguồn lực về vốn đối với phát triển kinh tế. Hoạt động ngân hàng đã được luật pháp hóa, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tăng cường cạnh tranh và trở thành động lực quan trọng đối với sự phát triển.
Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng phải tập trung mọi nỗ lực trong việc khai thác nguồn vốn.
Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm có vốn huy động, vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hửu của ngân hàng bao gồm giá trị thực có của vốn tiền lệ, các quỷ dự trữ và một số nguồn vốn khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Vốn tự có là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng, là căn cứ pháp lý để tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua hành vi mở tài khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng hoặc huy động các loại tiền gửi định kỳ có lãi. Đây là nguồn gốc cơ bản để ngân hàng thương mại cấp tín dụng vào nền kinh tế.
Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng Nhà nước, nguồn vốn đi vay bao gồm: nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng khác, nguồn vốn vay của ngân hàng trung ương, nguồn vốn trong thanh toán, các nguồn vốn khác.
Đối với ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ và làm phương tiện thanh toán. Đây là hai mặt đối lập trong một chỉnh thể thống nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Tất cả các ngân hàng thương mại đều sử dụng một lượng vốn rất lớn, nhiều lần so với vốn tự có của mình để cho vay. Để có được lượng vốn đó các ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn trong xã hội. Từ nguồn vốn huy động, nguồn vốn tự có của mình mà các ngân hàng thương mại sẽ đầu tư lại cho nền kinh tế. Như vậy, hoạt động chính của ngân hàng thương mại tất yếu là hai quá trình huy động vốn và sử dụng vốn, khi hai quá trình được tiến hành một cách bình thường thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại diễn ra trôi chảy, thuận lợi. Ngược lại, một trong hai quá trình đó bị ách tắc thì sẽ gây ra những khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Mặc khác, ngân hàng thương mại được xem là một doanh nghiệp hoạt động với phương châm “đi vay để cho vay” do đó đối với nguồn vốn huy động thì ngân hàng phải sử dụng vốn sao cho hiệu quả, nhất là việc cho vay, đầu tư góp vốn liên doanh… để trang trải cho mọi chi phí phát sinh, có lãi và đứng vững trong môi trường cạnh tranh đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với nền kinh tế
Vốn là điều kiện không thể thiếu trong nền kinh tế, vì bất kỳ một ngành nghề hay dịch vụ kinh doanh dù nhỏ hay lớn, đều phải có một số vốn tương ứng nhất định mới có thể hoạt động được. Bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế trước hết đều cần phải có vốn để đầu tư xây dựng mới, sản xuất hàng hóa, dịch vụ tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo việc làm, ổn định cuộc sống cho mọi người dân.Vì vậy, vốn luôn là vấn đề mới được đặt ra, vốn lấy từ đâu?, vốn từ ngân sách thì có hạn không thể chi cho tất cả mọi nhu cầu kinh tế trong xã hội, vốn từ mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp thì nhỏ bé, lẻ tẻ, không thể đơn lẻ mỗi người, mỗi doanh nghiệp sẽ dùng đồng vốn của mình để đầu tư sản xuất với qui mô lớn.
Việc tập trung được những đồng vốn tạm thời nhàn rỗi từ trong dân cư lại thành một khối lớn dùng để tài trợ cho nhu cầu đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế, không ai khác chính ngân hàng phải thực hiện chức năng trung gian hết sức quan trọng để huy động và cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Khi nền kinh tế bị lạm phát tức là tiền mặt ngoài lưu thông thừa so với nhu cầu thực tể của lưu thông hàng hóa, giá cả tăng cao. Do đó, để ổn định và rút bớt lượng tiền mặt ngoài lưu thông cũng cố nhiều biện pháp trong thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước, những biện pháp huy động vốn kết hợp với công cụ lãi suất hữu hiệu nhất trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước.
Đối với người gởi tiền
Bên cạnh công tác huy động vốn của ngân hàng thì còn có một số mặt nghiệp vụ hổ trợ như: thanh toán không dùng tiền mặt (chuyển khoản), chuyển tiền điện tử, thanh toán séc… Do đó, người gửi cá nhân hay doanh nghiệp rất thuận tiện trong việc chi trả hàng hóa, dịch vụ một cách nhanh chóng kịp thời và an toàn đồng v