Luận văn Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ ở tỉnh Bolykhămxay Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

1: Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới và có vai trò quan trọng trong từng bước phát triển của xã hội loài người. Phụ nữ vừa có thiên chức làm vợ, làm mẹ, là lao động chính trong gia đình, tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Song ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các Quốc gia kém và đang phát triển, phụ nữ rất ít khi được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy phụ nữ chưa thật sự được phát huy hết năng lực của mình và phấn đấu để thể hiện được sự bình đẳng với nam giới. Đây là mục tiêu chung của toàn thể phụ nữ trên thể giới. Với 51% dân số cả nước, phụ nữ Lào đã có những đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công lao đó đã được Đảng, Nhà nước và lịch sử ghi nhận. Đó là: người mẹ hiền, người vợ trung hậu, đảm đang những người lao động cần cù, năng động, sáng tạo, là người chiến sĩ anh hùng, trung kiến bất khuất, người hoạt động xã hội tận tụy, kiên nhẫn, tài năng, là người tạo dựng và gìn giữ tổ ấm gia đình. Ngày nay đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này, đòi hỏi toàn dân phải nỗ lực phấn đấu đem hết tài năng và sức lực phục vụ Tổ Quốc và đòi hỏi bộ máy nhà nước phải trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Muốn vậy, phải có một đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học giỏi, có phẩm chất chính trị vững vàng, năng động sáng tạo, có khả năng hội nhập cao. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ là yêu cầu sống còn của mọi cơ quan, tổ chức nhà nước và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và chính phủ Lào. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo,quản lý nói chung, cán bộ công chức nữ nói riêng tỉnh Bolykhămxay còn nhiều bất cập về năng lực lãnh đạo, quản lý. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ cũng gắn với công tác cán bộ chung của Đảng và được khẳng định trong Đại hội Đảng VII, VIII “ Chúng ta phải coi trọng công tác xây dựng và nâng cao năng lực cán bộ và đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ lãnh đạo cấp cao, cán bộ nữ và dân tộc có đủ trình độ năng lực, sức khỏe, tinh thần để có thể tham gia và các lĩnh vực ngày càng tăng lên” Trong rất nhiều chính sách của mình, Đảng và Nhà nước cũng đã rất quan tâm đến công tác vận động và phát triển phụ nữ nói chung và cán bộ, công chức nữ nói riêng. Song với rất nhiều nguyên nhân, vai trò và vị trí của phụ nữ vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Điều này, thể hiện ở số lượng cán bộ, công chức nữ làm việc trong cơ quan nhà nước còn ít. Đặc biệt, là số lượng phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo nhất là các cương vị cao còn rất ít, tỉnh Bolykhămxay cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều đó, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do năng lực lãnh đạo,quản lý của các công chức nữ của Lào nói chung, tỉnh nói riêng, còn chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Với mong muốn nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nữ, đặc biệt là năng lực của công chức lãnh đạo nữ, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ ở Tỉnh Bolykhămxay CHDCND Lào” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2: Tình hình nghiên cứu Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, là người chăm sóc và nuôi dưỡng thế hệ tương lai, họ cũng là có những đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về vai trò của phụ nữ trong xã hội, Tại Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu điều tra thực trạng đội ngũ cán bộ nữ tham gia gia hoạt động trong cơ quan hành chính Nhà nước các cấp, cụ thể là: - PTS.Nguyễn Mậu Dựng (1996), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng các cấp ở Tây Nguyên. -TS. Nguyễn Duy Hùng (1999-2002), Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay - PGS.TS Nguyễn Phú Trọng (2003) Luận cư khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. - PGS.TS Trần Xuân Sầm (1998) Xãc định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị. - Nguyễn Kim Thành: Giải pháp đào tạo cán bộ lãnh đạo nữ người dân tộc thiếu số, Tạp chí xây dựng Đảng (Số 7), năm 1998. Tại Lào đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh và trung ương, nhưng chủ yếu là xác định giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, chưa có công trình nào nghiên cứu và chỉ ra thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ nữ và những giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ này một cách toàn diện. -Ních khăm(2003): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội liên hiệp phụ nữ ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới hiện nay. -Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban nghành ở Thành phố Viêng Chăn. -Khăm chăn khăm vông chay(2006): Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt tỉnh Phong sa ly. Bên cạnh đó còn nhiều tạp chí, bản tin, bài viết, website của các viện nghiên cứu, các trung tâm thông tin, các văn kiện về vấn đề này.Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu về năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức này. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài trên để nghiên cứu. 3: Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ nữ cán bộ, công chức giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước thuộc tỉnh Bolykhămxay. - Phạm vi nghiên cứu: + Cán bộ công chức nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong UBND từ cấp tỉnh đến cấp bản (Chủ tịch, phó chủ tịch UBND); Giám đốc, PGĐ các Sở, ban, ngành, trưởng, phó các phòng ban trực thuộc UBND cấp tỉnh đến bản). + Cán bộ công chức nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp bản, bao gồm: (GĐ, PGĐ sở Tư pháp và trưởng phó phòng, ban thuộc Sở và trưởng, phó phòng Tư pháp huyện; Chánh án, phó chánh án TAND tỉnh và trưởng phòng, ban thuộc TAND tỉnh; Chánh án, phó chánh án TAND huyện và trưởng phòng, ban thuộc TAND huyện; Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND tỉnh và trưởng, phó phòng thuộc Viện KSND tỉnh, Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND huyện và trưởng, phó phòng thuộc Viện KSND huyện). 4: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức và xác định vị trí, vai trò của cán bộ nữ trong sự nghiệp đổi mới, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức nữ tại tỉnh BolyKhămxay đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ nữ. Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu và làm rõ khái niệm cán bộ công chức, cán bộ lãnh đạo, năng lực và năng lực lãnh đạo và quản lý. - Các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức - Xác định các tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức nữ. - Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ, công chức nữ tại tỉnh Bolykhămxay và tìm ra nguyên nhân của kết quả đã đạt được cũng như những mặt còn tồn tại của công chức lãnh đạo nữ ở tỉnh Bolykhămxay. - Đề ra các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý của phụ nữ trong thời kỳ mới. 5: Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về công tác cán bộ và năng lực cán bộ. Kết hợp với các phương pháp phân tích, so sách, lôgic và tổng kết thực tiễn, hệ thống hóa, khảo sát thực tế để đưa ra kiến nghị và giải pháp. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đã có trong nước và ngoài nước có liên quan làm sáng tỏ vấn đề mà mục đích nghiên cứu đã đề ra. 6: Những đóng góp của luận văn Dựa trên cơ sở phân tích các nguồn tư liệu trong nước và ngoài nước phân tích và làm sáng tỏ vị trí, vai trò của phụ nữ trong quản lý nhà nước; năng lực và năng lực lãnh đạo quản lý của cán bộ công chức nữ và việc cần thiết phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nữ. Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức nữ tại tỉnh Bolykhămxay để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại và cung cấp cho các cơ quan chức năng của Tỉnh những bức tranh toàn cảnh về thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức nữ và kinh nghiệm giải quyết của nước ngoài làm tiền đề cho việc đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ nữ trong điều kiện nay. 7: Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề chung về năng lực lãnh đạo, quản lý và sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức nữ. Chương 2: Thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ, công chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Bolykhămxay CHDCND Lào Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước.

doc117 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6492 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ ở tỉnh Bolykhămxay Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1: Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới và có vai trò quan trọng trong từng bước phát triển của xã hội loài người. Phụ nữ vừa có thiên chức làm vợ, làm mẹ, là lao động chính trong gia đình, tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Song ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các Quốc gia kém và đang phát triển, phụ nữ rất ít khi được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy phụ nữ chưa thật sự được phát huy hết năng lực của mình và phấn đấu để thể hiện được sự bình đẳng với nam giới. Đây là mục tiêu chung của toàn thể phụ nữ trên thể giới. Với 51% dân số cả nước, phụ nữ Lào đã có những đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công lao đó đã được Đảng, Nhà nước và lịch sử ghi nhận. Đó là: người mẹ hiền, người vợ trung hậu, đảm đang những người lao động cần cù, năng động, sáng tạo, là người chiến sĩ anh hùng, trung kiến bất khuất, người hoạt động xã hội tận tụy, kiên nhẫn, tài năng, là người tạo dựng và gìn giữ tổ ấm gia đình. Ngày nay đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này, đòi hỏi toàn dân phải nỗ lực phấn đấu đem hết tài năng và sức lực phục vụ Tổ Quốc và đòi hỏi bộ máy nhà nước phải trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Muốn vậy, phải có một đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học giỏi, có phẩm chất chính trị vững vàng, năng động sáng tạo, có khả năng hội nhập cao. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ là yêu cầu sống còn của mọi cơ quan, tổ chức nhà nước và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và chính phủ Lào. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo,quản lý nói chung, cán bộ công chức nữ nói riêng tỉnh Bolykhămxay còn nhiều bất cập về năng lực lãnh đạo, quản lý. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ cũng gắn với công tác cán bộ chung của Đảng và được khẳng định trong Đại hội Đảng VII, VIII “ Chúng ta phải coi trọng công tác xây dựng và nâng cao năng lực cán bộ và đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ lãnh đạo cấp cao, cán bộ nữ và dân tộc có đủ trình độ năng lực, sức khỏe, tinh thần để có thể tham gia và các lĩnh vực ngày càng tăng lên” Trong rất nhiều chính sách của mình, Đảng và Nhà nước cũng đã rất quan tâm đến công tác vận động và phát triển phụ nữ nói chung và cán bộ, công chức nữ nói riêng. Song với rất nhiều nguyên nhân, vai trò và vị trí của phụ nữ vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Điều này, thể hiện ở số lượng cán bộ, công chức nữ làm việc trong cơ quan nhà nước còn ít. Đặc biệt, là số lượng phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo nhất là các cương vị cao còn rất ít, tỉnh Bolykhămxay cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều đó, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do năng lực lãnh đạo,quản lý của các công chức nữ của Lào nói chung, tỉnh nói riêng, còn chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Với mong muốn nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nữ, đặc biệt là năng lực của công chức lãnh đạo nữ, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ ở Tỉnh Bolykhămxay CHDCND Lào” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2: Tình hình nghiên cứu Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, là người chăm sóc và nuôi dưỡng thế hệ tương lai, họ cũng là có những đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về vai trò của phụ nữ trong xã hội, Tại Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu điều tra thực trạng đội ngũ cán bộ nữ tham gia gia hoạt động trong cơ quan hành chính Nhà nước các cấp, cụ thể là: - PTS.Nguyễn Mậu Dựng (1996), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng các cấp ở Tây Nguyên. -TS. Nguyễn Duy Hùng (1999-2002), Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay - PGS.TS Nguyễn Phú Trọng (2003) Luận cư khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. - PGS.TS Trần Xuân Sầm (1998) Xãc định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị. - Nguyễn Kim Thành: Giải pháp đào tạo cán bộ lãnh đạo nữ người dân tộc thiếu số, Tạp chí xây dựng Đảng (Số 7), năm 1998. Tại Lào đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh và trung ương, nhưng chủ yếu là xác định giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, chưa có công trình nào nghiên cứu và chỉ ra thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ nữ và những giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ này một cách toàn diện. -Ních khăm(2003): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội liên hiệp phụ nữ ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới hiện nay. -Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban nghành ở Thành phố Viêng Chăn. -Khăm chăn khăm vông chay(2006): Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt tỉnh Phong sa ly. Bên cạnh đó còn nhiều tạp chí, bản tin, bài viết, website của các viện nghiên cứu, các trung tâm thông tin, các văn kiện về vấn đề này.Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu về năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức này. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài trên để nghiên cứu. 3: Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ nữ cán bộ, công chức giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước thuộc tỉnh Bolykhămxay. - Phạm vi nghiên cứu: + Cán bộ công chức nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong UBND từ cấp tỉnh đến cấp bản (Chủ tịch, phó chủ tịch UBND); Giám đốc, PGĐ các Sở, ban, ngành, trưởng, phó các phòng ban trực thuộc UBND cấp tỉnh đến bản). + Cán bộ công chức nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp bản, bao gồm: (GĐ, PGĐ sở Tư pháp và trưởng phó phòng, ban thuộc Sở và trưởng, phó phòng Tư pháp huyện; Chánh án, phó chánh án TAND tỉnh và trưởng phòng, ban thuộc TAND tỉnh; Chánh án, phó chánh án TAND huyện và trưởng phòng, ban thuộc TAND huyện; Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND tỉnh và trưởng, phó phòng thuộc Viện KSND tỉnh, Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND huyện và trưởng, phó phòng thuộc Viện KSND huyện). 4: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức và xác định vị trí, vai trò của cán bộ nữ trong sự nghiệp đổi mới, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức nữ tại tỉnh BolyKhămxay đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ nữ. Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu và làm rõ khái niệm cán bộ công chức, cán bộ lãnh đạo, năng lực và năng lực lãnh đạo và quản lý. - Các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức - Xác định các tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức nữ. - Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ, công chức nữ tại tỉnh Bolykhămxay và tìm ra nguyên nhân của kết quả đã đạt được cũng như những mặt còn tồn tại của công chức lãnh đạo nữ ở tỉnh Bolykhămxay. - Đề ra các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý của phụ nữ trong thời kỳ mới. 5: Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về công tác cán bộ và năng lực cán bộ. Kết hợp với các phương pháp phân tích, so sách, lôgic và tổng kết thực tiễn, hệ thống hóa, khảo sát thực tế để đưa ra kiến nghị và giải pháp. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đã có trong nước và ngoài nước có liên quan làm sáng tỏ vấn đề mà mục đích nghiên cứu đã đề ra. 6: Những đóng góp của luận văn Dựa trên cơ sở phân tích các nguồn tư liệu trong nước và ngoài nước phân tích và làm sáng tỏ vị trí, vai trò của phụ nữ trong quản lý nhà nước; năng lực và năng lực lãnh đạo quản lý của cán bộ công chức nữ và việc cần thiết phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nữ. Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức nữ tại tỉnh Bolykhămxay để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại và cung cấp cho các cơ quan chức năng của Tỉnh những bức tranh toàn cảnh về thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức nữ và kinh nghiệm giải quyết của nước ngoài làm tiền đề cho việc đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ nữ trong điều kiện nay. 7: Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề chung về năng lực lãnh đạo, quản lý và sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ công chức nữ. Chương 2: Thực trạng năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ, công chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Bolykhămxay CHDCND Lào Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức nữ trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ CÔNG CHỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC NỮ Năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ công chức Năng lực là một khái niệm luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, đó là năng lực của một tổ chức hay một cá nhân, năng lực lãnh đạo của cán bộ công chức gắn liên với chủ thể là cán bộ, công chức nhà nước. Vì vậy, trước khi đi nghiên cứu năng lực năng lực của đội ngũc này cần phải làm rõ khái niệm cán bộ công chức, cán bộ công chức lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định : “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc ” “ cán bộ là tiền vốn của đoàn thể , có vốn mới làm ra lãi ,bất cứ chính sách ,công tác gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công tức là có lãi, không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức là lỗ vốn”[33,tr 20] Cán bộ, công chức Quan niệm cán bộ công chức là quan niệm mang tính lịch sử, chính trị. Nội hàm của nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của nền công vụ của từng quốc gia, cũng như từng giai đoạn cụ thể của từng quốc gia đó. Vì vậy trong thực tế, khó có một quan niệm về cán bộ công chức một cách thống nhất cho tất cả các quốc gia, mà ngay trong một quốc gia thì khái niệm cán bộ công chức cũng khác nhau trong từng thời kỳ. 1.1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức chung - Ở nước ngoài Tại Pháp quan niệm về cán bộ công chức đầu tiên được xác định bằng “ lệ quan”, song trong đó khái niệm cán bộ công chức cũng chưa thật sự rõ ràng, đến năm 1984 bằng việc ra đời bộ luật mới: “ Luật địa vị nói chung của công chức” Thì nội hàm từ cán bộ công chức cũng như địa vị, quyền và nghĩa vụ công chức mới được xác định rõ ràng hơn. Theo luật nay, cán bộ công chức của Pháp bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, lĩnh vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một công sử nhà nước hoặc một công sử tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một ngạch của nền hành chính công. Công chức được gọi chung là nhân viên công chức bao gồm: nhân viên làm việc trong Bộ máy Hành chính Nhà nước, các Quan toà, nhân viên sự nghiệp quốc doanh, nhân viên đơn vị quân sự và nhân viên làm việc trong Quốc hội.Nhưng không phải tất cả nhân viên công chức đều chịu sự điều chỉnh bởi luật công chức, mà chỉ có nhân viên giữ các chức vụ thường xuyên trong Bộ máy Hành Chính Nhà nước, còn lại các nhân viên được điều chỉnh bằng luật lao động, Luật hợp đồng họ được bảo vệ về mặt chức nghiệp. Tại Anh, năm 1895 thuật ngữ “công chức” là những người do Vua Anh trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ ban dân sự cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho phép tham gia công tác của cơ quan dân sự và những người mà toàn bộ tiền lương được hưởng từ ngân sách thống núât của Vương quốc liên hợp hoặc và các khoản khác được Nghị viện thông qua. Đến năm 1977, quan niệm công chức được giải thích rõ hơn đó là những người thay mặt Nhà nước giải quyết công việc công. Những người không có được vị trí trong Bộ máy nhà nước được pháp luật quy định thì không phải là công chức, Ví du: nhân viên Chính trị, nhân viên Tư pháp…. Tại Trung Quốc cán bộ dùng chung để chỉ những nhân viên, công chức để phân biệt với nhân viên tập sự, bình linh, công nhân; còn một nghĩa nữa là chuyên chỉ những người có trách nhiệm lãnh đạo và công chức không lãnh đạo, được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước thông quan một chế độ thi tuyển rất khắt khe. Bằng cách liệt kê cụ thể những ngạch công chức không lãnh đạo, và những chức danh của công chức lãnh đạo, Trung Quốc đã chỉ ra cụ thể những đối tượng là công chức. Tại Nhật Bản hiện nay từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để chỉ những người đóng vai trò bộ khung, còn để chỉ công chức hay viên chức họ dùng từ “quan liêu”, theo nghĩa phổ biến là những người làm việc trong bộ máy nhà nước. Tại Việt Nam khái niệm cán bộ công chức được thay đổi theo từng thời kỳ. Ban đầu từ “cán bộ” được dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có ảnh hưởng tác động đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, đóng góp phần định hướng phát triển của tổ chức. Đồng thời có thể hiểu rằng: cán bộ là khái niệm chỉ những người làm việc, công tác có chức vụ trong một cơ quan, một bộ máy nhất định của Đảng và Nhà nước, là người được đào tạo, rèn luyện thử thách và trưởng thành trong quá trình thi hành đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thio hành, đồng thời đem tình hình người dân báo cáo cho Đảng và Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”, “Vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi việc” [33,tr.26]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Người luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người nói: Việc đào tạo bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu, phải trọng nhân tài,trọng cán bộ, trọng những người có ích cho công việc chung của chúng ta” [33,tr32]. Hiện nay, theo Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 và pháp lệnh sửa đổi bổ sung năm 2003 qui định tại điều 1: Cán bộ, công chức Nhà nước là công dân Việt Nam được đào tạo, tuyển dụng, được sắp xếp vào ngạch, bậc nhất định nhằm thưc hiện một nhiệm vụ thường xuyên trong bộ máy nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, bao gồm: a)Những người do bầu cử để đảm nhiệm một chức vụ theo nghiệm kỳ trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuôc trung ương (sau đay gọi là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện) b) Nhứng người được tuyển dụng bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, tỉnh, huyện; c) những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức, hoặc được giao giữ nhiệm một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, tỉnh, huyện; d) Những người được tuyển dụng bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; e) thẩm phán toà án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; f) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ tường xuyên làm việc trong cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, quân nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phảI là sĩ quan, hạk sĩ quan chuyên nghiệp g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nhiệm vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã. Theo Nghị định 117/2003/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam thì các đối tượng được coi là công chức bao gồm: -Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; -Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm và một nghạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, quân nhân quốc phòng, làm việc trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Theo Nghị định 116/2003/NĐ-CP qui định nhóm đối tượng sau đây được gọi là viên chức: Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một nghạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội. Trong chuyên đề nghiên cứu về cán bộ, công tác cán bộ thuộc đề tài KHXH.05.03, Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05 của XHCN Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nội dung của khái niệm cán bộ được hiểu là: Thứ nhất, là những người hoạt động trong hệ thống chính trị, trong các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước, được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn để đảm đương chức trách trong bộ máy đó. Nhưng không phải tất cả những người được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn đều là cán bộ, mà chỉ những người được đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ. Mặt khác, ở các đơn vị cơ sở cấp xã, thị trấn có không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học… Vì vậy cán bộ là khái niệm rất rộng, bao quát nhiều người hoạt động trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, là người có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị (Cán bộ lãnh đạo,quản lý). Với đặc trưng này thì cán bộ là người khác với người không có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thông qua con đường bầu cử dân chủ hoặc đề bạt bổ nhiệm. Vì vậy có thể nói cán bộ là: người làm công tác chuyên môn trong một cơ quan, một tổ chức của HTCT, có trình độ đào tạo từ cao đẳng, đại học trở lên. Và những người làm công tác có chức vụ trong một tổ chức lãnh đạo, quản lý để tổ chức và phối hợp hành động của các thành viên trong một nhóm, một tập đoàn người nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ công tác va đạt mục tiêu đề ra[5,tr.13] Ở Lào quan niệm cán bộ, công chức cũng khác nhau trong từng thời kỳ. Ban đầu từ “ Cán bộ” được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên, dần dần từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với người dân. Hiện tại, khái niệm “ cán bộ, công chức” được hiểu đồng nhất giữa hai từ này. Song cán bộ công chức được hiểu tương tự như quan niệm của Việt Nam. Theo điều 2 pháp lệnh cán bộ công chức năm 2003 qui định: Đó là những người mang quốc tịch Lào và được tuyển, bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước từ trung ương đến địa phương và các tổ chức đại diện CHĐCN Lào tại nước ngoài được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.Bao gồm: Cán bộ công chức của Lào qui định tại điều 2 pháp lệnh cán bộ công chức bao gồm những người được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các cơ quan Đảng, đòn thể, mặt trận tổ quốc, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, các tổ chức đại diện của Lào ở nước ngoài. Đội ngũ cán bộ công chức cấp tỉnh là một bộ phận cấu thành đội ngũ công chức của cả nước, bao gồm: - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một nghạch công chức, hoặc giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà
Luận văn liên quan