Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tập quán canh tác lúa lâu đời, Việt Nam
được xem là một trong những quốc gia xuất kh ẩu lúa gạo lớn trên thế giới. Trong
th ời gian vừa qua xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận. Cho đến nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường của trên 70 nước và
vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ. Thị trường xuất
khẩu chủ lực của gạo Việt Nam chủ y ếu là thị trường các nước Châu Á như
Philippine, Malaysia Tuy nhiên, lượng gạo tiêu thụ bình quân trên đầu người ở
các thị trường này đang có xu hướng giảm dần làm cho nhu cầu gạo ở các thị trường
xuất khẩu truy ền thống của Việt Nam đang tiến tới bão hòa.
Trung Đông là một khu vực cách xa nước ta về địa lý và có nhiều điểm khác
biệt về truy ền thống văn hóa, ngôn ngữ, tuy nhiên, đây là thị trường dồi dào tiềm
năng cho công cuộc đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010- 2020. Hiện
nay, Trung Đông là khu vực nhập khẩu (NK) lương thực lớn của thế giới với
khoảng 90% nhu cầu lương thực hàng năm được đáp ứng từ NK bên ngoài. Trung
Đông với dân số hơn 300 triệu người, tốc độ tăng dân số cao, đặc biệt các quốc gia
trong khu vực có thế mạnh về dầu mỏ như UAE, Cô oét, Ả rập Xê út tạo nên khả
năng thanh toán rất tốt cho việc NK.
Từ đó có thể th ấy rằng tiềm năng thương mại giữa Việt Nam và Trung Đông là
rất lớn do Việt Nam xu ất khẩu chủ y ếu những mặt hàng mà Trung Đông có nhu cầu
NK.Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của Việt Nam vào Trung Đông vẫn còn rất h ạn chế.
Kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2011 vào thị trường này mới chỉ đạt hơn 60 triệu
USD, chưa tương xứng với tiềm năng thương mại giữa hai bên.
Từ th ực tế trên, năm 2008, Bộ Công Thương đã xây dựng và ban hành “Chương
trình hành động đẩy mạnh quan hệ với Trung Đông đến năm 2015” nhằm thúc đẩ y
xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xu ất kh ẩu mặt hàng gạo nói riêng vào thị
trường Trung Đông.
90 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5767 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt
Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Đông
Năng l c c nh tranh c a m t hàng g o Vi t Nam xu t kh u sang th tr ng Trung
Đông
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tập quán canh tác lúa lâu đời, Việt Nam
được xem là một trong những quốc gia xuất khẩu lúa gạo lớn trên thế giới. Trong
thời gian vừa qua xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận. Cho đến nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường của trên 70 nước và
vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ. Thị trường xuất
khẩu chủ lực của gạo Việt Nam chủ yếu là thị trường các nước Châu Á như
Philippine, Malaysia…Tuy nhiên, lượng gạo tiêu thụ bình quân trên đầu người ở
các thị trường này đang có xu hướng giảm dần làm cho nhu cầu gạo ở các thị trường
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam đang tiến tới bão hòa.
Trung Đông là một khu vực cách xa nước ta về địa lý và có nhiều điểm khác
biệt về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tuy nhiên, đây là thị trường dồi dào tiềm
năng cho công cuộc đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010- 2020. Hiện
nay, Trung Đông là khu vực nhập khẩu (NK) lương thực lớn của thế giới với
khoảng 90% nhu cầu lương thực hàng năm được đáp ứng từ NK bên ngoài. Trung
Đông với dân số hơn 300 triệu người, tốc độ tăng dân số cao, đặc biệt các quốc gia
trong khu vực có thế mạnh về dầu mỏ như UAE, Cô oét, Ả rập Xê út…tạo nên khả
năng thanh toán rất tốt cho việc NK.
Từ đó có thể thấy rằng tiềm năng thương mại giữa Việt Nam và Trung Đông là
rất lớn do Việt Nam xuất khẩu chủ yếu những mặt hàng mà Trung Đông có nhu cầu
NK.Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của Việt Nam vào Trung Đông vẫn còn rất hạn chế.
Kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2011 vào thị trường này mới chỉ đạt hơn 60 triệu
USD, chưa tương xứng với tiềm năng thương mại giữa hai bên.
Từ thực tế trên, năm 2008, Bộ Công Thương đã xây dựng và ban hành “Chương
trình hành động đẩy mạnh quan hệ với Trung Đông đến năm 2015” nhằm thúc đẩy
xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu mặt hàng gạo nói riêng vào thị
trường Trung Đông.
Để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Đông
trong bối cảnh hiện nay khi mà mặt hàng gạo Việt Nam đang đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt từ các đối thủ như Thái Lan, Pakistan, Mỹ và gần đây nhất là Ấn Độ,
năng lực cạnh tranh (NLCT) của mặt hàng gạoxuất khẩu của Việt Nam cần phải
được nâng cao. Ý thức được tính cấp bách đó, tác giả đã chọn đề tài “Năng lực cạnh
tranh của mặt hàng gạo Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Đông” làm khóa
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lại các chỉ tiêu đánh giá NLCT XK và các nhân tố ảnh hưởng đến
NLCT XK của một mặt hàng.
- Tìm hiểu khái quát về thị trường gạo Trung Đông.
- Đánh giá thực trạng NLCT của mặt hàng gạo Việt Nam tại thị trường Trung
Đông.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao NLCT của mặt hàng gạo Việt Nam
xuất khẩu sang Trung Đông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NLCT của mặt hàng gạo Việt Nam xuất
khẩu sang thị trường Trung Đông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu hoạt động xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam, thị
trường tiêu thụ tại Trung Đông. Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả chỉ xem xét 15
nước Trung Đông hiện có quan hệ ngoại giao với Việt Nam theo số liệu của Bộ
Ngoại giao Việt Nam cung cấp: Ba-ranh, Cô-oét, Ô-man, Ca-ta, Ả-rập Xê-út, các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Yemen, Palextin, I-rắc, Ixrael, Jordan, Liban,
Syria, Iran, Ai Cập.
- Về thời gian: khóa luận nghiên cứu thực trạng NLCT của mặt hàng gạo XK
của Việt Nam sang Trung Đông từ năm 2007 đến nay, giải pháp được đề xuất áp
dụng từ nay đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp
so sánh, tổng hợp, phân tích thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích
và dự báo…
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Đông
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh mặt hàng gạo của Việt Nam xuất
khẩu sang thị trường Trung Đông giai đoạn 2007 đến nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng gạo Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Trung Đông từ nay đến 2020
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự quan tâm và hướng
dẫn tận tình của TS. Nguyễn Tiến Hoàng. Tác giả xin gửi đến thầy lời cảm ơn chân
thành sâu sắc, và nhân đây cũng xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể Thầy cô trường Đại
học Ngoại thương Cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt những
kiến thức vô cùng quý báu và mang tính thực tiễn cao trong suốt 4 năm học vừa
qua. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do hạn chế về thời gian, tư liệu nghiên cứu
và kiến thức chuyên môn, nội dung đề tài không tránh khỏi những sai sót và khiếm
khuyết về nội dung, hình thức, phương pháp luận…Kính mong nhận được những ý
kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn độc giả để khóa luận được hoàn thiện
hơn.
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Mỹ Huyên
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA MẶT HÀNG GẠO VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ
TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
1.1. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của hàng hóaxuất khẩu
1.1.1. Cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản
xuất và trao đổi hàng hóa. Trong xã hội hiện nay, cạnh tranh được xem là một trong
những nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh đã đem lại cho nền kinh tế và đời
sống xã hội một diện mạo mới đồng thời cũng làm phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực
cần phải khắc phục.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh. Hiện nay các nhà khoa học vẫn
chưa thống nhất một khái niệm nhất định nào về cạnh tranh. Theo K.Marx (giáo
trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, 2007, tr.203) : “Cạnh
tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu
ngạch”
Pearce D.W (2003, tr.247)“Cạnh tranh là quá trình ganh đua hoặc tranh giành
giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản phẩm
hoặc khách hàng về phía mình, đạt được những lợi ích tối đa”
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế
học(xuất bản lần thứ 12, tr.281) cho rằng “Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp (DN) cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị
trường”
Như vậy có thể hiểu: Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều đối thủ để
giành lấy những điều kiện có lợi cho mình trong một hoàn cảnh, một không gian
xác định. Cụ thể, cạnh tranh trong kinh tế là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều chủ
thể hoạt động kinh tế trong một hoàn cảnh cụ thể để giành lấy thị trường tiêu thụ
sản phẩm bằng những phương cách khác nhau hay giành lấy sự lựa chọn của khách
hàng đối với sản phẩm của mình cung cấp.
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Nó là động
lực thúc đẩy các DN không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đổi mới
công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giúp DN phát huy được
năng lực và sức mạnh của mình. Nhờ vào đó các DN đáp ứng nhu cầu ngày càng đa
dạng của người tiêu dùng. Vì vậy, cạnh tranh cũng là động lực nâng cao hiệu quả
hoạt động của mỗi nền kinh tế, tạo cơ chế tự điều chỉnh cho thị trường.
Từ các định nghĩa trên có thể thấy điều kiện để có cạnh tranh trong nền kinh tế:
- Phải có nhiều chủ thể tham gia cạnh tranh với nhau, các chủ thể có cùng mục
đích, mục tiêu, tức là phải có một đối tượng mà chủ thể cùng hướng đến tranh
giành, chiếm đoạt.
- Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, ở
đó có các ràng buộc hoặc các điều kiện mà chủ thể cạnh tranh phải tuân thủ. Các
ràng buộc này chính là các đặc điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng, các ràng
buộc của luật pháp và thông lệ kinh doanh ở trên thị trường.
- Cạnh tranh phải diễn ra trong một khoảng thời gian, không gian cố định. Sự
cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng không gian hẹp như một tổ chức, một địa
phương, một ngành, cũng có thể diễn ra trong không gian rộng là một quốc hay giữa
các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh
1.1.2.1 Khái niệm
Năng lực cạnh tranh (NLCT) luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các
quốc gia vì vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển của mỗi nền kinh tế. là
một khái niệm chưa có sự thống nhất. Khái niệm NLCT được áp dụng ở cả hai cấp
độ: cấp độ vĩ mô bao gồm NLCT của quốc gia và thậm chí là của một khu vực và
cấp độ vi mô bao gồm NLCT của DN, các ngành kinh doanh và của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh quốc gia:
“Đối với một quốc gia, năng lực cạnh tranh là khả năng nâng cao mức sống một
cách nhanh và bền vững, tức là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định,
được đo lường bằng mức độ thay đổi trong thu nhập bình quân đầu người qua các
năm” (Nguyễn Hữu Khải, 2005, tr.28)
Theo Lương Gia Cường (2003, tr67), năng lực cạnh tranh quốc gia được định
nghĩa là “năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được
đầu tư, đảm bảo ổn định được kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân”.
Như vậy, NLCT quốc gia là khả năng quốc gia đó có thể giữ vững tăng trưởng
kinh tế góp phần nâng cao thu nhập và mọi mặt đời sống cho người dân.
Năng lực cạnh tranh của DN
Theo cách hiểu đơn giản nhất, năng lực cạnh tranh của DN là: “khả năng nắm
vững thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần
tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được năng cao” (Hill/Jones, tr.105). Năng lực
cạnh tranh của DN là khả năng mà hãng đó có thể bán được hàng nhanh chóng và
nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng
hóa cụ thể. Khái niệm này có thể áp dụng đối với từng DN, cũng như đối với một
ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực
và thế giới.
Trong quản trị chiến lược, NLCT của một DN là khả năng DN đạt được tỷ suất
lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ bản
chất của lợi thế cạnh tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại không giúp
nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo nên NLCT, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh
tranh quốc tế.
Diễn đàn cao cấp vềCạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của OECD địnhnghĩa
NLCT là: “khả năng của các DN, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu
nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn trong khi vẫn đối mặt
với cạnh tranh quốc tế”. Đây là cách định nghĩa dựa trên quan điểm của cả ba cấp
độ: DN, ngành và quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa
“NLCT của một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó trên thị trường là sự thể hiện
tính ưu việt hay tính hơn hẳn của nó về định tính hay định lượng với các chỉ tiêu
như: chất lượng sản phẩm, thương hiệu, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh
thực phẩm; khối lượng và sự ổn định chất lượng của sản phẩm; kiểu dáng; mẫu mã
sảnphẩm; môi trường thương mại, mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm trên thị
trường; sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại như thuế,
tỷ giá, tín dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ…và cuối cùng là chỉ tiêu về giá thành và giá
cả sản xuất”(Nguyễn Hữu Khải, 2005, tr.30, 31)
Có thể hiểu rằng, NLCT của hàng hóa là tổng hợp các tính chất, quy cách của
hàng hóa mà qua đó thể hiện được mức độ đáp ứng yêu cầu của khách hàng khi
tiêu dùng hàng hóa đó so với các hàng hóa cùng loại trên thị trường.
NLCT của hàng hóa xuất khẩu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) là
tất yếu đối với tất cả các nền kinh tế của các quốc gia. Các sản phẩm ngày càng đa
dạng phong phú đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng quốc tế.
Chính điều này đã dẫn đến việc cạnh tranh xuất khẩu, và các quốc gia muốn thành
công trong lĩnh vực xuất khẩu một mặt hàng nào đó phải phấn đấu để nâng cao
NLCT mặt hàng đó của quốc gia mình.
Theo Michael Porter (1990, tr.126) “Năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu là khả năng sản phẩm đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy
trì và mở rộng thị phần ở thị trường nước ngoài, đạt được mức lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn
và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi
trường kinh doanh”.
Như vậy có thể hiểu NLCTcủa sản phẩm xuất khẩu là tất cả các đặc trưng, yếu
tố cấu thành và những đặc điểm tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát
triển vị trí của mình trên thị trường cạnh tranh xuất khẩu một cách lâu dài.
Một sản phẩm có NLCT xuất khẩu khi nó có thể nắm vững và gia tăng thị phần
ở nước ngoài, đồng thời thu được mức lợi nhuận hợp lý trên khoản vốn đầu tư.
1.1.2.2 Mối quan hệ giữa các cấp độ NLCT
Các cấp độ của NLCT có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho
nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau.
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các cấp độ NLCT
Nguồn: Tác giả
Khi một quốc gia hay nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt sẽ giúp các DN
của quốc gia đó tạo dựng được NLCT tốt hơn trên thị trường thế giới. Nói cách
khác, NLCT quốc gia là một yếu tố góp phần hình thành NLCT của ngành và DN.
Ngược lại, khi các DN hay ngành có NLCT tốt sẽ góp phần vào việc tăng thu nhập
quốc gia và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh, góp phần tăng NLCT quốc
gia. Bên cạnh đó, NLCT của DN thể thiện qua NLCT của sản phẩm và dịch vụ mà
DN sản xuất kinh doanh. Sản phẩm hay dịch vụ mà DN cung cấp có NLCT tốt trên
thị trường chứng tỏ DN đó có NLCT tốt hơn so với các DN khác.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu
1.1.3.1 Chất lượng sản phẩm
Chất lượng của sản phẩm là toàn bộ các đặc tính của sản phẩm đó tạo ra cho nó
khả năng có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định. Một sản phẩm có chất lượng
tốt khi nó có khả năng thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của khách hàng so với sản
phẩm cùng loại.
Hiện nay, song song với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, thị
trường thế giới dần trở thành một sân chơi chung cho tất cả các DN các nước nhờ
vào việc gia nhập WTO, các quốc gia dần xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan thì việc cạnh tranh giữa các DN các nước bằng chất lượng sản phẩm ngày
một diễn ra sâu sắc hơn. Các DN tiến hành cải tiến qui trình sản xuất, đa dạng hóa
các tính năng của sản phẩm để nâng cao chất lượng sản phẩm của mình từ đó nâng
cao tính NLCT cho sản phẩm của DN.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thỏa mãn trong tiêu
dùng cho khách hàng. Do đó có thể thấy rằng chất lượng sản phẩm là nhân tố then
NLCT Ngành NLCT quốc gia
NLCT của DN
NLCT của sản phẩm
chốt để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm chính là
biện pháp hiệu quả nhất giúp cho DN có thể thu hút khách hàng, tạo dựng được uy
tín cho sản phẩm và DN của mình.Đặc biệt đối với mặt hàng thủy sản thì chất lượng
sản phẩm đóng vai trò đặc biệt quan trọng hơn cả vì nó ảnh hưởng trực tiếp nhất đến
sức khỏe người tiêu dùng.
1.1.3.2 Giá cả
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định NLCT của
sản phẩm vì đó là chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm. Giá cả
trên thị trường thế giới được hình thành dựa trên quy luật cung cầu hàng hóa quốc
tế. Tuy nhiên, cùng một sản phẩm nhưng có nguồn gốc từ các quốc gia khác nhau
thì có mức giá khác nhau do sự khác biệt về giá thành, chất lượng sản phẩm, đặc
tính riêng của sản phẩm… Trong cơ chế cạnh tranh trên thị trường thế giới hiện
nay, giá cao không đồng nghĩa với NLCT thấp. Giá cao thể hiệnsản phẩm được
người tiêu dùng ưa thích và họ sẵn sàng trả giá cao chosản phẩm đó.
Trong hoàn cảnh hiện nay, việc áp dụng chính sách giá linh hoạt và đa dạng là
rất cần thiết để tạo nên sự thành công cho việc xuất khẩu sản phẩm. Bên cạnh đó,
DN cần có chiến lược tổng hợp, đổi mới công nghệ, qui trình sản xuất để tối ưu hóa
hoạt động sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, mang lại những sản phẩm có chất lượng
cao mà giá cả cạnh tranh so với các đối thủ trên thị trường thế giới.
1.1.3.3 Kênh phân phối
Bên cạnh chất lượng và giá cả sản phẩm tốt thì kênh phân phối đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Một
sản phẩm có chất lượng tốt và giá cả hợp lý, tuy nhiên, sản phẩm chưa thể đến tay
người tiêu dùng một cách dễ dàng, thuận tiện thì chưa đạt được hiệu quả trong xuất
khẩu.
Thông thường kênh phân phối đối với sản phẩmbao gồm người sản xuất sản
phẩm, tổng đại lý, người bán buôn, người bán lẻ và người tiêu dùng cuối cùng. Đối
với hoạt động xuất khẩu hàng hóa, để phân phối hàng hóa tới tay người tiêu dùng
công ty có thể lựa chọn hình thức xuất khẩu trực tiếp sử dụng đại diện bán hàng và
đại lý phân phối ở nước ngoại hoặc hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các
trung gian là các đại lý, công ty quản lý xuất khẩu, công ty kinh doanh XNK.
Kênh phân phối có vai trò quan trọng trong việc nâng cao NLCT của sản phẩm.
Kênh phân phối hoạt động hiệu quả sẽ đảm bảo đưa hàng hóa tới tay người tiêu
dùng được nhanh chóng và an toàn đồng thời cung cấp cho DN nhanh chóng các
phản hồi của khách hàng về sản phẩm, giúp DN hoàn thiện sản phẩm của mình hơn.
Nếu DN phát triển tốt hệ thống phân phối của mình sẽ giúp DN dễ dàngtiếp cận với
khách hàng hơn, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
1.1.3.4 Quảng cáo và xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là tổng thể đa dạng các hoạt động thông tin giao tiếp và
xúc tiến kinh doanh xuất khẩu của DN, được tiến hành ở thị trường mục tiêu nước
ngoài; đó là hoạt động yểm trợ bên ngoài biên giới mỗi nước, diễn ra ở nhiều nền
văn hóa khác nhau trên cấp độ quốc tế hay trên thị trường toàn cầu, nhằm thực hiện
những mục tiêu đã định như quảng bá sản phẩm và hình ảnh DN, thâm nhập hay mở
rộng thị trường, tăng nhanh doanh thu sản phẩm hay lợi nhuận…”(Nguyễn Trung
Vãn, 2008, tr. 24)
Theo cách hiểu trên ta thấy được hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại
có vai trò không nhỏ trong việc chào hàng, bán hàng, thâm nhập và tìm kiếm thị
trường đối với một mặt hàng xuất khẩu, xây dựng, củng cố, phát triển hình ảnh cho
DN, nâng cao uy tín và danh tiếng DN trên thị trường quốc tế, mở ra cho DN nhiều
cơ hội hợp tác quốc tế.
1.1.3.5 Nhân lực
Đây là một yếu tố không thể thiếu trong việc đánh giá NLCT một mặt hàng
xuất khẩu của một quốc gia. Nhân lực được thể hiện cụ thể qua các tiêu chí: số
lượng lao động, trình độ lao động có tay nghề, kĩ năng, mức độ cam kết gắn bó với
ngành…
1.1.3.6 Thương hiệu
Hiện nay, thương hiệu được xem là tài sản vô hình quan trọng của DN. Thương
hiệu đóng góp rất lớn vào giá bán của sảnphẩm. Đối với những sản phẩm hiện có
trên thị trường, người tiêu dùng sẵn sàng trả thêm chi phí đáng kể trên giá trị sản
phẩm cho một thương hiệu được tin dùng. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển
thương hiệu là vấn đề mà các quốc gia cần phải quan tâm khi tham gia thương mại
quốc tế.
Việc xây dựng thương hiệu tạo ra giá trị gia tăng cho hàng hóa, khẳng định
được uy tín và chất lượng sản phẩm, tạo được sự tin cậy từ khách hàng, kích thích
tiêu thụ sản phẩm tốt hơn. Bên cạnh đó thương hiệu còn giúp DN giảm đáng kể các
chi phí cho việc quảng cáo và xúc tiến thương mại, việc phân phối đối với sản phẩm
có thương hiệu cũng thuận lợi và dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc xây dựng một thương hiệu tốt là một quá trình lâu dài và không
dễ dàng đối với một quốc gia. Thương h