NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ TRONG CÂU ĐỐ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
Trương Chí Hùng
TÓM TẮT
Đề tại tập trung nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt. Trên
cơ sở đó, chúng tôi tiến hành so sánh với chơi chữ trong ca dao dân ca và trong văn học viết. Qua
quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt vận dụng hầu
hết các tiềm năng ngôn ngữ đồng thời vận dụng linh hoạt các phương thức chơi chữ dựa vào cứ
liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học). Về mục đích, chơi chữ trong câu đố chỉ nhằm một mục
đích cuối cùng là làm ẩn đi vật đố, đánh lạc hướng tư duy, suy luận logic của đối tượng
giải đố. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, có thể xem chơi chữ trong câu đố là một cách thức
thể hiện ý thức thẩm mỹ cộng đồng, sự tôn trọng vốn ngôn ngữ tiếng Việt. Đồng thời, qua
chơi chữ trong câu đố phần nào cho ta thấy rõ hơn tính dí dỏm, óc khôi hài của các tác giả
dân gian. Đóng góp của nghệ thuật chơi chữ đã phần nào tạo nên tính hấp dẫn, thú vị,
chất trí tuệ cho câu đố dân gian.
ABSTRACT
This research focuses on the the art of word play in Vietnamese’s folk puzzles. Basing on
that, we carry out a comparition between Vietnamese’s folk puzzles and that in folks songs, folk
poems and written literature. Through the survey, we notice that Vietnamese folk puzzles use
amost all of the language’s potential as well as make flexible use of word-play techniques which
are based on text-external data (literature data). On one hand, word play in puzzles only aims at
hiding the target of the puzzle or distract people’s logical thought. On the other hand, word play is
also considered a way of expressing aesthetic sense or respect of Vietnamese language. At the
same time, we can have a clearer look at folk authors’ sense of humor. The contribution of word
play art, in certain extent, forms and increases the interest and intelligence to folk puzzles.
1 - ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, câu đố dân gian chiếm số lượng khá lớn. Nó
phản ánh một cách phong phú thế giới quan cũng như những nhận thức của nhân dân về các hiện
tượng tự nhiên, xã hội. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một bộ phận khá lớn câu đố có sử dụng
nghệ thuật chơi chữ. Thiết nghĩ, việc khảo sát, giải mã đặc trưng của nghệ thuật chơi chữ trong
câu đố dân gian chắc hẳn có ý nghĩa trực tiếp đến quá trình tiếp cận, khám phá cái hay, cái đẹp
của thể loại Folklore này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật chơi chữ
trong câu đố dân gian người Việt”.
2 - MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến khái niệm về câu đố dân gian
người Việt cũng như các khái niệm đề cập đến nghệ thuật chơi chữ.
- Thứ hai, tiến hành tập hợp những câu đố dân gian có sử dụng nghệ thuật chơi chữ trong
kho tàng câu đố dân gian người Việt thành bảng phụ lục. Phân loại, khảo sát những kiểu dạng
chơi chữ một cách hệ thống.
- Thứ ba, tiến hành so sánh về đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người
Việt với đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong văn học viết để từ đó có những đúc kết, những nhận
định khoa học về đối tượng nghiên cứu.
83 trang |
Chia sẻ: baohan10 | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
BỘ MÔN LÝ LUẬN VĂN HÓA
ĐỀ TÀI NCKH CẤP TRƯỜNG
NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ
TRONG CÂU ĐỐ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
Chủ nhiệm đề tài: TRƯƠNG CHÍ HÙNG
THÁNG 02 NĂM 2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành cảm ơn:
- Ban Giám hiệu Trường Đại học An Giang;
- Ban Chủ nhiệm Khoa Văn hóa nghệ thuật;
- Phòng Quản lý Khoa học và Hợp tác Quốc tế;
- Quý thầy cô cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm hỗ trợ và tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với Thạc sĩ Trần Tùng Chinh,
người đã động viên và có những ý kiến đóng góp quý báu cho tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Một lần nữa, xin chân thành tri ân.
Long Xuyên, tháng 02/2009
Trương Chí Hùng
NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ TRONG CÂU ĐỐ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
Trương Chí Hùng
TÓM TẮT
Đề tại tập trung nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt. Trên
cơ sở đó, chúng tôi tiến hành so sánh với chơi chữ trong ca dao dân ca và trong văn học viết. Qua
quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt vận dụng hầu
hết các tiềm năng ngôn ngữ đồng thời vận dụng linh hoạt các phương thức chơi chữ dựa vào cứ
liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học). Về mục đích, chơi chữ trong câu đố chỉ nhằm một mục
đích cuối cùng là làm ẩn đi vật đố, đánh lạc hướng tư duy, suy luận logic của đối tượng
giải đố. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, có thể xem chơi chữ trong câu đố là một cách thức
thể hiện ý thức thẩm mỹ cộng đồng, sự tôn trọng vốn ngôn ngữ tiếng Việt. Đồng thời, qua
chơi chữ trong câu đố phần nào cho ta thấy rõ hơn tính dí dỏm, óc khôi hài của các tác giả
dân gian. Đóng góp của nghệ thuật chơi chữ đã phần nào tạo nên tính hấp dẫn, thú vị,
chất trí tuệ cho câu đố dân gian.
ABSTRACT
This research focuses on the the art of word play in Vietnamese’s folk puzzles. Basing on
that, we carry out a comparition between Vietnamese’s folk puzzles and that in folks songs, folk
poems and written literature. Through the survey, we notice that Vietnamese folk puzzles use
amost all of the language’s potential as well as make flexible use of word-play techniques which
are based on text-external data (literature data). On one hand, word play in puzzles only aims at
hiding the target of the puzzle or distract people’s logical thought. On the other hand, word play is
also considered a way of expressing aesthetic sense or respect of Vietnamese language. At the
same time, we can have a clearer look at folk authors’ sense of humor. The contribution of word
play art, in certain extent, forms and increases the interest and intelligence to folk puzzles.
1 - ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, câu đố dân gian chiếm số lượng khá lớn. Nó
phản ánh một cách phong phú thế giới quan cũng như những nhận thức của nhân dân về các hiện
tượng tự nhiên, xã hội. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một bộ phận khá lớn câu đố có sử dụng
nghệ thuật chơi chữ. Thiết nghĩ, việc khảo sát, giải mã đặc trưng của nghệ thuật chơi chữ trong
câu đố dân gian chắc hẳn có ý nghĩa trực tiếp đến quá trình tiếp cận, khám phá cái hay, cái đẹp
của thể loại Folklore này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật chơi chữ
trong câu đố dân gian người Việt”.
2 - MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến khái niệm về câu đố dân gian
người Việt cũng như các khái niệm đề cập đến nghệ thuật chơi chữ.
- Thứ hai, tiến hành tập hợp những câu đố dân gian có sử dụng nghệ thuật chơi chữ trong
kho tàng câu đố dân gian người Việt thành bảng phụ lục. Phân loại, khảo sát những kiểu dạng
chơi chữ một cách hệ thống.
- Thứ ba, tiến hành so sánh về đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người
Việt với đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong văn học viết để từ đó có những đúc kết, những nhận
định khoa học về đối tượng nghiên cứu.
3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
4 - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
4.1 Các hình thức chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt:
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi đã tập hợp được 312 câu đố dân gian người Việt có sử
dụng nghệ thuật chơi chữ. Chơi chữ trong câu đố dân gian vận dụng hầu hết các tiềm năng ngôn
ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các kiểu dạng chơi chữ trong từng cấp độ là không
đều. Chúng tôi nhận thấy có 373 lượt chơi chữ trong câu đố với những cấp độ khác nhau (mỗi câu
đố xuất hiện ở một cấp độ được tính là một lượt). Cụ thể:
Cấp độ ngôn ngữ Số lượt (373) Tỉ lệ (100%)
Ngữ âm và chữ viết 156 41,8%
Từ vựng, ngữ nghĩa 86 23,1%
Ngữ pháp 23 6,2%
Nói lái 28 7,5%
Cứ liệu ngoài văn bản 80 21,4%
4.1.1 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết:
Theo số liệu trên, chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết có mật độ xuất hiện
khá lớn (156 lượt, chiếm 41,8%). Bao gồm:
- Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh:
Vd: Rù rì, rủ rỉ, rù ri
Chồng chồng, vợ vợ, tù ti tù tì
Thế gian mấy kẻ so bì
Ngẫm mà hổ thẹn tu mi liễu bồ. Là con gì?
(Đáp: Con chim cu)
- Chơi chữ bằng cách điệp âm:
Vd: Bùng bình bùng bình bầu,
Cái răng ở dưới, cái đầu ở trên. Là cái gì?
(Đáp: Cái nơm)
- Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm:
Vd: Mồm bò1, không phải mồm bò2 mà là mồm bò3. Là gì?
(Đáp: Con ốc)
- Chơi chữ bằng cách chiết tự:
+ Chơi chữ bằng hình thức chiết tự chữ Hán:
Vd: Bà thổ đi chợ dã
Không ai rõ mua thứ gì. Là chữ gì?
(Đáp: chữ địa )
+ Chơi chữ bằng cách chiết tự chữ Việt:
Vd: Hai em cộng với hai anh
Cùng nhau ghép lại thì thành con chim. Là con gì?
(Đáp: Chim manh manh)
- Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ thuộc ngôn ngữ khác với ngôn ngữ đang dùng:
Vd: Lưng tròn vành vạnh đít bảnh bao
Mân mân mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa âm dương sôi sùng sục
Âm dương nhị khí sướng làm sao. Là gì?
(Đáp: Người hút thuốc lào)
Có thể thấy, việc chơi chữ bằng các phương tiện ngữ âm và chữ viết xuất hiện phong phú
trong câu đố dân gian. Điều này có thể lý giải bởi các nguyên nhân: Thứ nhất, do cấu trúc của câu
đố thường ngắn gọn, súc tích nên thuận tiện cho việc vận dụng phương tiện chơi chữ này. Thứ
hai, hình thức diễn xướng của các tác phẩm Folklore nói chung và câu đố nói riêng là qua truyền
miệng. Do vậy, việc vận dụng các hình thức chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm, chữ viết sẽ khai
thác tốt vỏ âm thanh của ngôn ngữ, góp phần làm cho quá trình diễn xướng câu đố trở nên hấp
dẫn, sinh động, thu hút hơn. Mặt khác, các phương tiện ngữ âm, chữ viết khiến cho câu đố trở nên
hóc búa, đánh lạc hướng logic tư duy của đối tượng giải đố. Vì vậy, phương tiện này được tác giả
dân gian vận dụng một cách phổ biến.
4.1.2 Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa: xuất hiện khá nhiều trong câu đố
(86 lượt, chiếm 23,1%). Chúng tôi chia ra thành các tiểu dạng như sau:
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa:
Vd: Một lần mà tởn tới già
Đừng đi nước mặn mà hà ăn chưn. Là gì?
(Đáp: Con kinh)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa:
Vd : Mình lành mà tiếng chẳng lành
Dạ sâu tiếng cạn, thực hành mà xem. Là gì?
(Đáp: Cái bể cạn)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa:
Vd: Đầu đội Giáp Ất
Miệng ngậm Bính Đinh
Cổ đeo Canh Tân
Bụng mang Nhâm Quí
Thân là Mậu Kỷ. Là cái gì?
(Đáp: Cái ống điếu)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ lệch nghĩa:
Vd : Hai bảy mười bốn thường mà
Đố anh hai bảy mười ba là gì ?
(Đáp : Năm nhuận hai tháng bảy)
Trong câu đố dân gian, chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa cũng xuất hiện
khá nhiều. Có thể thấy, về mặt cấu trúc, câu đố hoàn toàn thuận tiện cho phương tiện chơi chữ
này. Xét về chức năng, chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa mang đến cho câu đố
những sắc thái ý nghĩa, những giá trị hết sức thiết thực. Chính vì vậy, mật độ xuất hiện của
phương tiện chơi chữ này khá phổ biến trong câu đố dân gian.
4.1.3 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp :
Câu đố có mức độ vận dụng chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp tương đối ít (23 lượt,
chiếm 6,2%). Có thể thấy, trong tất cả các cấp độ chơi chữ mà câu đố có thể vận dụng, cấp độ
chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp ít liên quan đến quá trình ẩn giấu vật đố nhất. Nói cách khác,
vận dụng kiểu chơi chữ này không phục vụ nhiều cho mục đích đố - giải. Hơn nữa, cấu trúc ngắn
gọn câu đố cũng không cho phép vận dụng linh hoạt các kiểu chơi chữ bằng phương tiện ngữ
pháp. Chính vì thế mà chơi chữ dạng này xuất hiện không mấy phổ biến trong câu đố. Chúng tôi
tìm được một số dạng như sau:
- Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc đối xứng:
Vd: Đã đành đi sớm về trưa
Một mình, mình một bơ vơ một mình. Là gì?
(Đáp: Gái lỡ thì)
- Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc ngẫu nhiên:
Vd: Cây khô thiên hạ đồn khô
Thấy mùi hương đó không cho biết mùi. Là gì?
(Đáp: Ông hương mục)
- Chơi chữ bằng cách đảo trật tự, vị trí từ ngữ:
Vd: Ốc đậu cọc cầu ao
Cọc cầu ao ốc đậu. Là chữ gì? (Đáp: Chữ “phi” )
4.1.4 Chơi chữ bằng nói lái : Trong câu đố, chơi chữ bằng nói lái có 28 câu, chiếm 7,5%,
gồm ba dạng lái chính: hoán vị vần, hoán vị phụ âm và vần, hoán vị vần và thanh. Chúng tôi đặt
“A” là phụ âm đầu; “B” là phần vần và “x” là thanh điệu trong âm tiết thứ nhất. “C” là phụ âm
đầu; “D” là phần vần và “y” là thanh điệu trong âm tiết thứ hai. Các âm tiết ban đầu sẽ có công
thức: ABx + CDy. Khi lái, ta sẽ khái quát thành những công thức chủ yếu sau đây:
- Hoán vị vần: Ta có công thức: ABx + CDy ADx + CBy
Vd: Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn. Là con gì?
(Đáp: Con ngựa)
- Hoán vị phụ âm và vần: Ta có công thức: ABx + CDy CDx + ABy
Vd: Kiển tố vừa đố vừa giảng
Bằng cái nồi ba tha la kiển tố. Là gì?
(Đáp: Tổ kiến)
- Hoán vị vần và thanh điệu: Ta có công thức: ABx + CDy ADy + CBx
Vd: Hít vào, hít ra, hít một
Thèm thèm ta đem lùi tro. Là gì ?
(Đáp: hột mít)
4.1.5 Chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học): có 80 lượt (chiếm
21,4%). Bao gồm các dạng sau:
- Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn học dân gian:
+ Biến ca dao thành câu đố:
Vd : Thương nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay. Là gì?
(Đáp: Con dấu hoặc con lừa mẹ)
+ Biến thành ngữ, tục ngữ thành câu đố:
Vd: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Là gì?
(Đáp: Nước)
+ Sử dụng ca dao đưa vào câu đố:
Vd: Ở nhà, anh anh, em em
Ra đi lại bỏ, không đem theo cùng.
- Chàng ơi cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
(Đáp: Cái gối)
+ Sử dụng thành ngữ, tục ngữ đưa vào câu đố:
Vd : Kẻ ăn ở nhờ,
Tấm thân bé mọn bơ vơ trăm chiều.
Một liều, ba bảy cũng liều
Ai cho, cho được bao nhiêu cũng mừng. Là cây gì?
(Đáp: Tầm gửi)
Chơi chữ bằng cách sử dụng cứ liệu văn học dân gian trong câu đố chủ yếu là vận dụng
các ngữ liệu từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Một vài câu đố sử dụng ngữ liệu từ truyện kể dân
gian. Điều này có thể giải thích bởi tính gần gũi về mặt cấu trúc của các thể loại câu đố, tục ngữ,
thành ngữ và ca dao. Hầu hết câu đố dân gian có kết cấu giống hình thức kết cấu của ca dao, tục
ngữ. Một số ít câu đố có kết cấu dạng câu đối hoặc tác phẩm văn chương bác học. Ngoài ra, hệ
thống đề tài, hình ảnh được sử dụng trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ khá gần gũi với đời sống
người dân lao động, gần gũi với hệ đề tài và hình ảnh mà câu đố dân gian đề cập nên việc vận
dụng qua lại giữa các thể loại này là điều thiết yếu. Cái đặc sắc của những câu đố dạng này là sự
vận dụng khéo léo nét tương đồng giữa nghĩa bóng (của cứ liệu văn học dân gian) và nghĩa đen
(chỉ vật đố). Tuy nhiên, xét về bản chất, câu đố sử dụng cứ liệu văn học dân gian vẫn có nét dị
biệt rõ rệt. Bởi lẽ, bản thân câu đố, mặc dù sử dụng nguyên khối hay một bộ phận cứ liệu văn học
dân gian, thì mục đích chủ yếu của câu đố cũng không nhằm bày tỏ tâm tư tình cảm, phản ánh
những triết lý, kinh nghiệm sống mà cốt đề cập đến vật đố, để “gọi đúng tên” vật đố.
- Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn chương bác học:
Việc vận dụng các cứ liệu văn chương bác học để chơi chữ trong câu đố, chúng tôi nhận
thấy hầu hết các cứ liệu ấy đều xuất phát từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có 2 cách vận dụng chủ
yếu : Tập Kiều và Lẩy Kiếu.
+ Tập Kiều là chọn một câu lục của đoạn này ghép với một câu bát trong đoạn khác của
Truyện Kiều để diễn đạt một ý mới khác với nguyên bản.
Trong câu đố, việc tập Kiều tạo ra những vế đố hết sức độc đáo.
Vd: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đinh ninh hai miệng một lời song song. Là gì?
(Đáp: Con diều sáo)
+ Lẩy Kiều là chọn và rút ra một vài câu liền nhau trong Truyện Kiều rồi đặt chúng vào
ngữ cảnh mới khác với ngữ cảnh vốn có trong ngôn bản nhằm tạo ra nét nghĩa mới.
Vd: Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không? Là trái gì?
(Đáp: Trái mơ)
4.2 So sánh nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian và trong học viết :
Do mục đích, tác dụng khác nhau mà câu đố dân gian và văn học viết (chủ yếu là thơ ca)
có sự vận dụng những tiềm năng ngôn ngữ trong chơi chữ theo từng mức độ khác nhau. Mặt
khác, đặc trưng thể loại câu đố và văn học viết cũng là một vấn đề khiến chúng có sự khác biệt cơ
bản về nghệ thuật chơi chữ. Bởi lẽ, bản thân câu đố dân gian là một thể loại Folklore, chủ yếu
được sáng tác, lưu truyền thông quan con đường truyền miệng. Chính vì vậy mà các phương thức
chơi chữ trong câu đố thường tập trung khai thác vào vỏ âm thanh của ngôn từ. Trong khi đó, bản
chất của tác phẩm văn học viết là lưu truyền và tồn tại trên văn bản bằng chữ viết. Do đó, đối
tượng tiếp cận các tác phẩm văn học viết sẽ có điều kiện đọc, nghiền ngẫm cặn kẽ hơn. Chính vì
vậy mà các phương thức chơi chữ trong văn học viết sẽ phong phú, đặc biệt tập trung vào các
phương thức chơi chữ liên quan đến chữ viết, cấu trúc ngữ pháp, văn bản...
5. PHẦN KẾT LUẬN
Những đặc điểm được khảo sát và đánh giá ở phần nội dung đề tài chỉ là những đặc điểm
cơ bản nhất về nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian, một thể loại độc đáo trong kho tàng
văn học dân gian người Việt. Đề tài đã góp phần thừa nhận và khẳng định vai trò của nghệ thuật
chơi chữ trong việc tạo nên tính hấp dẫn của câu đố, tạo nên sự uyên thâm, trí tuệ trong hoạt động
đố - giải. Qua đó, chúng ta có thêm những cơ sở cần thiết để khẳng định giá trị của câu đố dân
gian trong đời sống tinh thần của dân tộc.
Có thể nói, hiện nay quá trình sáng tác và tiếp nhận văn chương theo tính cộng đồng
không còn phổ biến. Các sáng tác dân gian mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết đầu tư
sưu tầm, khôi phục lại nhưng kết quả thu được chỉ mang tính tương đối. Việc khám phá, khẳng
định những nét đặc sắc của các di sản văn hóa dân gian sẽ phần nào giúp người dân ý thức rõ hơn
về vị trí, vai trò của các di sản trong đời sống tinh thần mỗi con người. Qua đó, mọi người cùng
góp phần tôn vinh, lưu truyền, thưởng thức. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn khẳng
định giá trị một thể loại Folklore độc đáo của dân tộc – câu đố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Tùng Chinh. 2002. Tài liệu giảng dạy Văn học dân gian Việt Nam. An Giang: Đại
học An Giang.
Nguyễn Đình Chúc, Huệ Nguyễn. 2000. Câu đố Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa dân
tộc.
Chu Xuân Diên (chủ biên). 2005. Văn học dân gian Bạc Liêu. Tp. Hồ Chí Minh: NXB
Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thành Dương. 2004. Nói lái trong câu đố Việt. Kỷ yếu ngôn ngữ học trẻ.
Ninh Viết Giao. 1997. Câu đố Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Lê Trung Hoa, Hồ Lê. 2005. Thú chơi chữ. TP. Hồ Chí Minh: NXB Khoa học Xã hội.
Nguyễn Hoàng Huy. 2004. Câu đối trong văn hóa Việt nam. Tp. Hồ Chí Minh: NXB
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
Đinh Gia Khánh (chủ biên). 2006. Văn học dân gian Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Ngọc Linh. 2008. Tuyển tập câu đố dân gian Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin.
Nguyễn Bá Lương. 2004. Câu đố dân gian Việt Nam – tài và hóm. Tạp chí Ngôn ngữ và
đời sống. Số 104.
Trần Đức Ngôn. 2005. Tổng tập Văn học dân gian người Việt (tập 3 – Câu đố). Hà Nội:
NXB Khoa học xã hội.
Triều Nguyên. 2000. Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt. Huế: NXB Thuận
Hóa.
Triều Nguyên. 2008. Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt (trọn bộ 4 tập).
Huế: NXB Thuận Hóa.
Nguyễn Văn Trung. 1999. Câu đố Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Tp. Hồ Chí Minh.
Cù Đình Tú. 1983. Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Hà Nội: Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
Khoa Ngữ Văn trường Đại học Cần Thơ. 1999. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu
Long. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Giáo dục.
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
A – PHẦN DẪN LUẬN
I – Lý do chọn đề tài 1
II – Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1
III – Đối tượng nghiên cứu 2
IV – Lịch sử vấn đề 3
V – Phương pháp nghiên cứu 4
VI – Đóng góp của đề tài 5
VI – Kết cấu đề tài 5
B – PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Đôi nét về câu đố dân gian và nghệ thuật chơi chữ 8
I – Câu đố dân gian 8
II – Nghệ thuật chơi chữ 12
1. Định nghĩa chơi chữ 12
2. Các hình thức chơi chữ 13
Chương II: Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt 15
I – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết 15
1. Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh 15
2. Chơi chữ bằng cách điệp âm 16
3. Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm 17
4. Chơi chữ bằng cách chiết tự 21
5. Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ 24
II – Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa 25
1. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa 25
2. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa 28
3. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa 29
4. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ lệch nghĩa 30
III – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp 31
1. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc đối xứng 31
2. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc ngẫu nhiên 32
3. Đảo trật tự, vị trí từ ngữ 33
III – Chơi chữ bằng nói lái 34
1. Hoán vị vần 35
2. Hoán vị phụ âm và vần 36
3. Hoán vị vần và thanh 56
IV – Chơi chữ dựa vào các cứ liệu văn học 38
1. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn học dân gian 38
2. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn chương bác học 41
Chương III: So sánh nghệ thuật chơi chữ 45
1. Phương tiện ngữ âm và chữ viết 45
2. Phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa 46
3. Phương tiện ngữ pháp 48
4. So sánh về tác dụng của các kiểu dạng chơi chữ 49
C – PHẦN KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
PHỤ LỤC 56
Trương Chí Hùng Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố
A – PHẦN DẪN LUẬN
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, câu đố dân gian chiếm số lượng
khá lớn. Nó phản ánh một cách phong phú thế giới quan cũng như những nhận thức của
nhân dân về các hiện tượng tự nhiên, xã hội. Nội dung đề cập đến trong câu đố vô cùng
đa dạng. Nó vừa đề cập đến những hiện tượng tự nhiên như mưa, nắng, gió, bão, sấm,
chớp; vừa đề cập đến các vật thể tự nhiên như sông, núi, mặt trăng, mặt trời, các vì
sao; những con vật như trâu, bò, mèo, chó, gà, vịt, chim chóc; cả con người, các
hoạt động của con người, các bộ phận trên cơ thể con người đều trở thành đối tượng
của câu đố. Chính vì nội dung được đề cập đến trong câu đố là phong phú, đa dạng cho
nên có thể thấy, việc tìm hiểu câu đố sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về thế giới
xung quanh, phần nào hiểu được nếp sống, nếp nghĩ của cha ông ta - những tác giả dân
gian tài hoa đã sáng tác ra câu đố.
Xét về mặt hình thức, câu đố là thể loại văn học dân gian sử dụng rất nhiều các
phương tiện, biện pháp tu từ độc đáo như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, vật hóa, ngoa dụ
đặc biệt là sử dụng nghệ thuật chơi chữ. Việc sử dụng các phương tiện, biện pháp tu từ,
trong đó có chơi chữ, đã phản ánh sự thông minh, dí dỏm và tài hoa của các tác giả dân
gian trong hoạt động đố và giải đố. Mặt khác, các phương tiện, biện pháp tu từ này cũng
giúp cho câu đố có những sắc thái riêng, thể hiện được đặc trưng thi pháp thể loại.
Chính những đặc trưng nghệ thuật của câu đố đã góp phần đem đến cho thể loại
này thêm hấp dẫn. Bởi lẽ, quá trình đố và giải đố không chỉ gói gọn tr