Luận văn Nghệ thuật công cộng nghiên cứu trường hợp đô thị hà nội từ 1975 đến nay

Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, nghệ thuật công cộng (NTCC) chỉ mới được nhìn nhận và quan tâm trong vài năm trở lại đây, trong khi ở những quốc gia phát triển, NTCC từ lâu đã được xem là một yếu tố quan trọng, tất yếu trong kiến trúc và không gian đô thị (ĐT). Tình trạng NTCC hiện thời ở Hà Nội nói chung khá ảm đạm, chúng không đáp ứng đúng và đủ nhu cầu thẩm mỹ của cư dân ĐT, không phát huy được vai trò kết nối không gian kiến trúc, thậm chí chúng còn trở thành chủ đề bức xúc trong dư luận xã hội. Hiện tại chưa một nghiên cứu chuyên sâu nào có cái nhìn tổng thể về lý thuyết NTCC ở Việt Nam để đánh giá về tình trạng NTCC ở các đô thị Việt nói chung và Hà Nội nói riêng, kể cả về hình thức biểu hiện lẫn vai trò của NTCC trong những lĩnh vực mà nó có mối quan hệ mật thiết như chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, con người, công nghệ thời đại

pdf27 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật công cộng nghiên cứu trường hợp đô thị hà nội từ 1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM -------------- Nguyễn Thị Lan Hương NGHỆ THUẬT CÔNG CỘNG NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐÔ THỊ HÀ NỘI TỪ 1975 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Lý luận & Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 62 21 01 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội - 2016 Công trình được hoàn thành tại VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Bá Dũng Phản biện 1: PGS. Lê Anh Vân – Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam. Phản biện 2: TS. Vũ An Khánh – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Văn Cương – Trường Đại học Văn hóa. Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Viện, tổ chức tại Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam Vào hồi...........giờ, ngày............tháng.........năm 2016. Có thể tìm luận án tại: 1. Thư viện Quốc gia Việt Nam 2. Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, nghệ thuật công cộng (NTCC) chỉ mới được nhìn nhận và quan tâm trong vài năm trở lại đây, trong khi ở những quốc gia phát triển, NTCC từ lâu đã được xem là một yếu tố quan trọng, tất yếu trong kiến trúc và không gian đô thị (ĐT). Tình trạng NTCC hiện thời ở Hà Nội nói chung khá ảm đạm, chúng không đáp ứng đúng và đủ nhu cầu thẩm mỹ của cư dân ĐT, không phát huy được vai trò kết nối không gian kiến trúc, thậm chí chúng còn trở thành chủ đề bức xúc trong dư luận xã hội. Hiện tại chưa một nghiên cứu chuyên sâu nào có cái nhìn tổng thể về lý thuyết NTCC ở Việt Nam để đánh giá về tình trạng NTCC ở các đô thị Việt nói chung và Hà Nội nói riêng, kể cả về hình thức biểu hiện lẫn vai trò của NTCC trong những lĩnh vực mà nó có mối quan hệ mật thiết như chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, con người, công nghệ thời đại... Với tất cả những lý do nêu trên, vấn đề “Nghệ thuật công cộng (Nghiên cứu trường hợp đô thị Hà Nội từ 1975 đến nay)” đã trở thành chủ đề nghiên cứu của luận án. 2. Mục đích nghiên cứu Luận án đưa ra một cái nhìn tổng thể, đặc biệt ở cấp độ lý thuyết lý luận về NTCC, khẳng định vai trò của NTCC trong quy hoạch , trong không gian văn hóa, đời sống xã hội đô thị, trong bối cảnh kinh tế đô thị. Áp dụng lý thuyết vào trường hợp NTCC Hà Nội từ 1975 đến 2014 để nhìn nhận ra một cách khái quát thực trạng NTCC Hà Nội nói riêng và đô thị Việt Nam nói chung hiện nay, từ đó đưa giải pháp phù hợp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Đối tượng là một số tác phẩm tiêu biểu của NTCC thế giới và Việt Nam; đặc biệt là NTCC Hà Nội, gồm tác phẩm mỹ thuật ngoài 2 trời, công trình nghệ thuật kiến trúc là điểm nhấn đô thị, một số hình thức của design thẩm mỹ đô thị. Phạm vi: NTCC ở Hà Nội từ 1975 đến 2014 (cùng một số thành phố khác đối chứng so sánh để làm rõ mục tiêu nghiên cứu). 4.Phương pháp nghiên cứu Luận án nghiên cứu “NTCC (Nghiên cứu trường hợp đô thị Hà Nội từ 1975 đến nay)” dựa trên phương pháp chính là phương pháp liên ngành cùng các phương pháp khác như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa khoa học, chuyên gia chuyên khảo để giải quyết các vấn đề của luận án. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Xác định cơ sở lý luận khoa học về NTCC ở Hà Nội nói riêng (các đô thị Việt nói chung). - Xác định vị trí của NTCC trong sự phát triển của đô thị về mặt xây dựng hình ảnh đô thị, kinh tế, văn hóa và xã hội của đô thị. - Tìm ra những nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật thích hợp với thị hiếu thẩm mỹ và văn hóa của cư dân Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. - Khảo sát, phân tích và đánh giá NTCC Hà Nội một cách tổng thể; chỉ ra những mặt tích cực cũng như bất cập, hạn chế của NTCC Hà Nội. - Đề xuất một số giải pháp cho NTCC để phù hợp với đặc trưng văn hóa riêng của Hà Nội (và của các đô thị Việt Nam nói chung). 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của NTCC. Chương 2: Những vấn đề cơ bản của NTCC. Chương 3: NTCC Hà Nội từ 1975 đến 2014. 3 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHỆ THUẬT CÔNG CỘNG 1.1. Giới thuyết khái niệm NTCC và một số khái niệm liên quan NTCC là loại hình nghệ thuật phục vụ công chúng, hoặc là nghệ thuật được đặt trong KGCC đô thị, nên luận án cần giới thuyết khái niệm NTCC và một số khái niệm liên quan. 1.1.1.Thuật ngữ NTCC: NTCC vốn là một thuật ngữ có nguồn gốc “ngoại nhập”, bởi nó được chuyển ngữ trực tiếp từ một cụm từ là public art. Theo như tổng kết riêng của nghiên cứu, xét về mặt thuật ngữ, NTCC là cụm từ được sử dụng để chỉ tất cả các tác phẩm nghệ thuật, được làm bằng mọi chất liệu và kỹ thuật chế tác, được cài đặt ở những địa điểm công cộng nhằm phục vụ mọi người dân trong các cộng đồng xã hội một cách miễn phí. 1.1.2 Khái niệm ĐT : Là nền tảng cho sự ra đời của NTCC nên đây là một khái niệm quan trọng cần được làm rõ. 1.1.3 Khái niệm KGCC: KGCC là điều kiện tồn tại của NTCC. Tính chất của nó có quan hệ mật thiết với các hình thức biểu đạt của NTCC. 1.2. Đặc trưng của NTCC NTCC là một loại thẩm mỹ xã hội đặc biệt. Nó chịu sự chi phối của đặc tính xã hội của không gian công cộng. Nghệ thuật công cộng mang đặc thù cởi mở, khoáng đạt đối với mọi đối tượng quần chúng nhân dân trong xã hội. Quần chúng có thể tham gia đóng góp những ý kiến của mình với người nghệ sĩ và với các cơ quan chức năng, góp 4 phần đưa ra những phương án tốt nhất, hiệu quả nhất cho NTCC. Bởi thế, cũng có thể nói, đặc trưng của NTCC là nghệ thuật được sáng tạo trong không gian công cộng của các xã hội có nền chính trị dân chủ. 1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của NTCC 1.3.1. Sơ lược lịch sử phát triển NTCC trên thế giới: Ở phần này, ngoài nguồn gốc NTCC, luận án tập trung chủ yếu vào những biến đổi trong bối cảnh kinh tế, xã hội đô thị hiện đại từ những năm 80 của thế kỷ trước; những ý tưởng, chính sách, kế hoạch nhằm phát triển nghệ thuật công cộng ở một số nước hay thành phố có sự đột phá mang tính tiên phong về mọi mặt của NTCC. Đây chính là phần quan trọng trong lịch sử NTCC mà luận án cần khai thác. 1.3.2. Lịch sử NTCC Việt Nam: Phần này, tuy luận án đề cập đến lịch sử NTCC trong cả nước, nhưng NTCC Hà Nội chiếm phần lớn trong đó. Bởi, dù thuật ngữ NTCC mới chỉ xuất hiện ở nước ta trong vài năm trở lại đây, nhưng những biểu hiện NTCC chủ yếu tập trung ở Hà Nội từ những năm đầu thế kỷ XX, khi người Pháp tiến hành cải tạo và xây dựng các đô thị ở Việt Nam theo phong cách các đô thị phương Tây. 1.4. Các loại hình NTCC Theo nghĩa rộng, có thể gộp NTCC thành các nhóm bao gồm: Nghệ thuật kiến trúc ,design công cộng, nghệ thuật tạo hình công cộng, điện ảnh, sân khấu, âm nhạc công cộng, nghệ thuật đường phố, các sản phẩm mỹ thuật truyền thông đa phương tiện dành cho công chúng nói chung. Luận án tập trung đề cập đến khu vực tạo hình thẩm mỹ công cộng và design công cộng cố định (những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật, những tạo hình thẩm mỹ mang tính không gian gắn với kiến trúc, tượng vườn, tượng đài, tranh tường hoành tráng, tranh đường phố, các biểu trưng xã hội, các vật dụng đường phố, tạo hình giải trí). 5 1.5. Phân biệt NTCC với một số loại hình nghệ thuật liên quan 1.5.1. NTCC và nghệ thuật tạo hình NTCC chính là nghệ thuật tạo hình nhưng được thể hiện với một số điều kiện đặc biệt (là sáng tác đặt hàng, loại trừ tính cá nhân, tương thích với không gian công cộng, vật liệu phụ thuộc vào công nghệ thời đại) 1.5.2. NTCC không phải là nghệ thuật cộng đồng Nghệ thuật cộng đồng thiên về các hoạt động của nhiều tầng lớp trong xã hội, sinh ra từ chính nhân dân, không nhất thiết mang phong cách cá nhân, tổ chức trong những dịp nhất định, cũng không cần lưu giữ lâu dài. Trong khi đó NTCC, tuy để phục vụ chung cho xã hội nhưng luôn nằm trong quy hoạch cao của đời sống đô thị, là diễn đàn cho các tranh luận tự do của xã hội, do các tác giả có tên tuổi sáng tạo, lưu giữ lâu dài trong các công trình công cộng, có ý nghĩa như biểu tượng xã hội. 1.5.3. NTCC và mỹ thuật môi trường Mặc dù có chung mục đích làm đẹp cho các KGCC, phục vụ cuộc sống của con người trong xã hội, có chung ngôn ngữ biểu hiện và hình thức biểu thị. Nhưng nếu NTCC hướng tới việc sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật vừa là làm đẹp, vừa có khả năng hình tượng hóa lịch sử quốc gia trong các KGCC, được xây dựng để tác động đến những lĩnh vực khác nhau của lợi ích xã hội và có mối quan hệ sâu sắc đến không gian cụ thể mà nó được đặt định; thì mỹ thuật môi trường lại hướng tới việc tổ chức bài trí các thành phần tự nhiên và nhân tạo của đô thị trong KGCC đô thị chung mang tính khái quát. Tiểu kết Được ra đời từ nhu cầu kiến trúc đô thị và đời sống xã hội đô thị, NTCC là một loại thể nghệ thuật đặc biệt, gắn liền với sự phát triển của các đô thị. Xét trên phương diện lý thuyết, NTCC được hiểu là nghệ thuật trong KGCC – một không gian trong đó tồn tại một phương thức công khai công cộng dành cho nhu cầu của nhiều người. NTCC không hạn chế đối tượng nó phục vụ, nó là nghệ thuật miễn phí và 6 công chúng của nó là tất cả mọi người dân. Tính phóng khoáng, cởi mở và năng động của không gian công cộng là nguyên do khiến NTCC không hạn chế về mặt hình thức, thể loại, chất liệu, kỹ thuật tạo hình. Mọi tác phẩm nghệ thuật, khi được sáng tạo và được đặt trong không gian công cộng đều là những tác phẩm NTCC. NTCC không đơn thuần chỉ là những tác phẩm nghệ thuật. Bản thân nó đã hàm chứa trong nó tính phản biện xã hội. NTCC sử dụng nghệ thuật như là một công cụ, một phương tiện truyền thông cho chính quyền, là một diễn đàn xã hội của các cộng đồng cư dân đô thị. Đây cũng chính là sự khác biệt cơ bản đã dẫn đến những khác biệt trong thực hành của NTCC với các loại nghệ thuật khác kể cả các loại nghệ thuật vốn có ranh giới khá mờ nhạt đối với NTCC như nghệ thuật cộng đồng, mỹ thuật môi trường Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NTCC 2.1. Tính chất cơ bản của NTCC 2.1.1. Tính dân chủ Từ trong lịch sử, NTCC có địa điểm cài đặt chuyên biệt là các quảng trường (Agora), nơi kết nối mô hình xã hội dân chủ nên NTCC trng không gian này mang đặc tính đầu tiên là tính dân chủ. 2.1.2. Tính đại diện NTCC đại diện cho một khu vực có thể mang đặc điểm liên quan đến địa điểm đó hoặc không, miễn là hình ảnh của nó gây dấu ấn riêng biệt. 7 2.1.3. Tính giao tiếp xã hội NTCC có khả năng mang lại sự giao tiếp. Không gian NTCC là một không gian giao tiếp và NTCC đại diện hình ảnh của các luồng tư tưởng giao tiếp nhau. 2.1.4. Tính tham dự NTCC có khả năng kết nối cộng đồng vào chung một ý tưởng bằng việc tạo điều kiện cho cộng đồng tham dự vào tác phẩm. 2.1.5. Tính chuyên biệt địa điểm NTCC có thể truyền tải đặc tính chuyên biệt của địa điểm. Nó có khả năng tham chiếu các thông tin toàn thế giới để đưa ra một hình thức mà cư dân đô thị đó có thể tìm thấy, nhận diện được mình trong hình ảnh khái quát đó. 2.1.6. Tính phi vật chất NTCC đôi khi không cần không cần sự hiện diện vật lý cụ thể của tác phẩm trong không gian. Nó tồn tại bằng cảm nhận nghệ thuật của những ý niệm, tư tưởng, thông điệp của nghệ sĩ truyền tới khán giả bằng các hình thức như văn bản, ánh sáng, kỹ thuật số, cảm giác đụng chạm. 2.1.7. Tính độc lập theo thời gian Trong thế giới phẳng với sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông, sự độc lập của tác giả và tác phẩm NTCC được xác định bởi giá trị thời gian chứ không nhất thiết được xác định bởi hiển thị vật chất của tác phẩm trong KGCC vật lý. 2.2. Mục đích, giá trị của NTCC trong đô thị 2.2.1 Mục đích của NTCC Một trong những mục đích quan trọng nhất của NTCC là hạn chế nhược điểm và tăng tính hấp dẫn cho các KGCC đô thị. Mục đích thứ 2 của NTCC là gợi mở tự do tiếp cận. Mục đích thứ 3 là biểu hiện nghệ thuật hóa các tư tưởng chính quốc và đưa nó đến gần với đời sống của người dân, trên cơ sở nhà nước lấy dân làm trọng tâm của sự phát triển. 8 Mục đích thứ 4 của NTCC là thu hút sự chú ý của người xem và tạo ra một diễn đàn đối thoại, tranh luận. 2.2.2. Giá trị của NTCC * Giá trị văn hoá và nhận dạng cộng đồng đô thị của NTCC Mỗi thành phố, mỗi khu đô thị đều có vị trí địa lý và môi trường tự nhiên khác nhau, bối cảnh lịch sử và quá trình phát triển khác nhau, tính cách, hình tượng và dáng dấp đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, khi sự phát triển xã hội loài người mang tính toàn cầu, cùng với quá trình đô thị hoá, nét đặc thù của các đô thị ngày càng mờ nhạt dần. Trong bối cảnh đó, với năng lực có thể làm biến đổi cảnh quan môi trường xung quanh nó, NTCC, rõ ràng, có thể giúp cho đô thị lấy lại nét đặc thù vốn có của nó. * Giá trị xã hội và hợp tác của NTCC Sự xuất hiện của một tác phẩm NTCC không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần của một tác phẩm nghệ thuật mà còn có khả năng tham gia vào quá trình tổ chức lại không gian sinh hoạt xã hội đô thị ở một trình độ cao hơn trong mối tương quan hài hòa của các yếu tố môi trường thẩm mỹ thời đại mới. Sự phát triển như vậy của các tác phẩm NTCC tất yếu sẽ dẫn đến một hình thức tiếp nhận mới về nghệ thuật nói chung. NTCC có khả năng hướng con người vào sự thăng bằng và hài hòa, đưa đến những biểu hiện cảm thức lành mạnh. NTCC cùng không gian xung quanh nó có khả năng tạo dựng nên mối quan hệ hài hoà giữa nhịp điệu cuộc sống của con người với xã hội. Xã hội, nhờ đó mà ổn định và phát triển. * Giá trị kinh tế và tái sinh đô thị của NTCC Theo thuyết kinh tế học văn hóa của Richard Florida, văn hóa nghệ thuật có khả năng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và xã hội đô thị, thậm chí nó làm trẻ hóa những hình thức kinh doanh văn hóa đã từng bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển công nghiệp. Đây chính điểm hạn chế lớn nhất của các đô thị Việt Nam trong cái được gọi là tái sinh 9 đô thị, tức là dùng văn hóa nghệ thuật để tạo ra không gian sống hấp dẫn, thu hút được các trí thức, doanh nhân đến làm việc, định cư bởi chính họ sẽ là các nhà đầu tư, các nguồn tri thức mang lại kinh tế và công nghệ hiện đại cho đô thị. 2.3. Vai trò chức năng của NTCC 2.3.1. NTCC điều tiết các không gian đô thị Trong quy hoạch không gian đô thị, NTCC có vai trò rất lớn. Nó có thể tạo thành một hệ thống gồm các quảng trường, các tuyến giao thông có những điểm nhấn là công trình kiến trúc độc đáo, tượng đài hay nghệ thuật đường phố, các design đô thị, các vật dụng đô thị... tạo nên một cấu trúc chứa đựng tính nghệ thuật lớn mang hình ảnh đặc trưng của đô thị đó. 2.3.2 NTCC và chức năng giải trí, giải tỏa tâm lý, giáo dục tinh thần nhân văn Đối tượng phục vụ mà NTCC hướng tới là quần chúng nên NTCC không nhất định phải là một hình thức nghệ thuật được chính trị hóa, lịch sử hóa một cách cứng nhắc. Nó cần hướng về các giá trị nhân văn rộng rãi trong đời sống xã hội hàng ngày. Tinh thần nhân văn phải là nội dung chính của NTCC vì giá trị lớn nhất của NTCC nằm ở đây. 2.3.3. Vai trò của NTCC trong nhận dạng đô thị * NTCC bộc lộ bản sắc văn hóa đô thị * NTCC là điểm tựa hình ảnh của đô thị 2.3.4. Vai trò của NTCC trong phổ cập giáo dục thẩm mỹ cho công chúng Mục đích của NTCC là san bằng khoảng cách xã hội ở thành phố và đối tượng hướng tới là người dân. Các thành phố càng phát triển hiện đại thì khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội càng lớn, cho dù con người luôn cố gắng sáng tạo ra các hình thức cấu trúc đô thị nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi cư dân sống trong đô thị. NTCC luôn hướng tới mục đích lớn này. 10 2.4. Động lực phát triển của NTCC 2.4.1. Động lực từ phương diện xã hội và quy hoạch đô thị Cùng với sự mở rộng nhanh về diện tích và nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của cư dân là những hiển thị dè dặt thiếu bao quát các vấn đề xã hội của NTCC. Đây chính là động lực cho NTCC Hà Nội phát triển. 2.4.2. Động lực của chính bản thân nghệ thuật Thành phố càng lớn mạnh thì nghệ thuật càng phải phát triển để đảm đương được vai trò quan trọng của nó trong việc khẳng định hình ảnh riêng của thành phố, đó chính là động lực tự thân của NTCC. Hơn nữa, bản thân nghệ thuật luôn có xu hướng đi tìm cái mới để khẳng định đỉnh cao của nó nên phát triển NTCC là sự thay đổi và làm mới của chính NTCC. 2.4.3 Động lực từ nhân tố công chúng của NTCC * Công chúng với tư cách là nhân tố hoàn thiện tác phẩm * Công chúng NTCC với tư cách công dân 2.4.4. Động lực từ nghệ sĩ sáng tạo NTCC Trong sáng tạo NTCC, từ việc xây dựng dự án, kế hoạch, tranh luận quan điểm, quyết định và thực hiện dự án, cũng như hoàn thành toàn bộ quá trình xây dựng tác phẩm, người nghệ sĩ bao giờ cũng đóng vai trò chủ chốt. Động lực phát triển của NTCC chính là tư tưởng và tri thức của người nghệ sĩ. 2.4.5. Động lực từ chính sách phát triển văn hóa và kinh tế tư nhân cho NTCC Các chính sách phát triển văn hóa luôn dẫn đường cho mọi hoạt động văn hóa nghệ thuật trong đó có NTCC. Sự có mặt của vốn đầu tư tư nhân cho NTCC cũng rất quan trọng. Cho dù mục đích của tư nhân luôn là kinh doanh và lợi nhuận, nhưng cũng chính vì mục đích đó mà các nhà đầu tư có thể trang hoàng cho khu thương mại, ẩm thực, vui chơi trở nên hấp dẫn. 11 2.4.6 Động lực từ sự phát triển của khoa học công nghệ và chất liệu nghệ thuật Những thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ như phim ảnh, kỹ thuật số ngày nay đã làm thay đổi kiểu cảm nhận trực quan truyền thống của con người và cung cấp nguồn chất liệu vô tận cho NTCC. Khoa học kỹ thuật và công nghệ càng phát triển thì NTCC càng có nhiều ý tưởng nghệ thuật độc đáo ra đời. 2.5. Mối quan hệ giữa NTCC với đô thị 2.5.1. Quan hệ giữa KGCC và NTCC Luận án nhấn mạnh nguyên tắc trong kiến tạo không gian cho NTCC là KGCC được quy hoạch trước cho phù hợp kiến trúc sau mới là NTCC. NTCC cần có kích thước và các biểu hiện phù hợp với 5 loại hình không gian trong đô thị như luận án tổng kết. 2.5.2. Quan hệ không gian NTCC và con người KGCC dành cho mọi tầng lớp trong xã hội đến để giao lưu, thể hiện quyền dân chủ, nhưng trên thực tế không hoàn toàn như vậy bởi tâm lý xã hội và đôi khi là trường hợp giao KGCC cho tư nhân quản lý. Ở Việt Nam các hình thức NTCC cần thân thiện hơn để lôi kéo người dân tới những không gian này giao tiếp và thụ hưởng các giá trị của tác phẩm. 2.6. Ngôn ngữ của NTCC 2.6.1 Ngôn ngữ của NTCC (hình tượng, hình thể, không gian) Ba yếu tố này không tách rời nhau trong sáng tạo NTCC. Hình tượng là sự cô đọng từ hiện thực kết hợp tư tưởng mà tác phẩm hướng tới. Hình thể thể hiện hình tượng bằng tài năng của nghệ sĩ. Sự tương tác của tác phẩm với môi trường tự nhiên và xã hội nơi nó đặt định là yếu tố hoàn thiện tác phẩm. Công nghệ hiện đại đã cho phép các nghệ sĩ thể hiện hình tượng nghệ thuật bằng nhiều hình thức mới lạ. 2.6.2. Ngôn ngữ của nghệ thuật truyền thống trong NTCC * Không gian nghệ thuật truyền thống 12 * Tính tổng hợp của nghệ thuật truyền thống * Các thủ pháp nghệ thuật truyền thống Tiểu kết Đây là chương quan trọng nhất của luận án. Thông qua các phương pháp nghiên cứu, luận án đã đưa ra một hệ thống lý thuyết lý luận về NTCC trong bối cảnh Việt Nam. Từ đó, luận án đi đến khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa NTCC với không gian tự nhiên và xã hội đô thị, là một thành tố quan trọng trong phát triển đô thị. Nó có thể là điểm tựa hình ảnh, biểu thị bản sắc văn hóa, truyền tải tư tưởng chính trị, giáo dục đời sống nhân văn, điều tiết không gian, giải tỏa tinh thần cho cư dân đô thị Chương 3 NGHỆ THUẬT CÔNG CỘNG HÀ NỘI TỪ 1975 ĐẾN 2014 3.1. NTCC giai đoạn 1975-1986 3.1.1. Bối cảnh xã hội giai đoạn 1975-1986 Sau đại thắng mùa xuân 1975, cùng với cả nước, Hà Nội bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước, thực hiện đ
Luận văn liên quan