1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn l ương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đá p ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
l ượng, gia tăng về giá trị sản l ượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơ i có nhiều điều kiện
ưu đãi về đ iều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đ ến n ăm 2010"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu chung:
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại
sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao.
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc,
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản
xuất chè chất l ượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp , tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất
khẩu.
+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và
các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại , trên c ơ sở đó đề xuất giải pháp
nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa
giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang
trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại
Từ tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ.
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm
2006-2007.
+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá
sự phát triển của các trang trại.
4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học và ph ươ ng pháp nghiên cứu:
Chương 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong
thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ
từ nay đến năm 2010.
114 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
Thái Nguyên, năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ LÝ
Thái Nguyên, năm 2008
Lêi cam ®oan
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến:
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại
học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người
đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT,
phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
danh môc c¸c b¶ng
STT
Biểu 01
Biểu 02
Biểu 03a
Biểu 03b
Biểu 04
Biểu 05
Biểu 06
Biểu 7
Biểu 8
Biểu 9
Biểu 10
Biểu 11
Biểu 12
Biểu số 13
Biểu 14
Tªn b¶ng
Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc
Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ
Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp
Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình
sản xuất
Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại
Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007
Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Vốn sản xuất của trang trại năm 2007
Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Thành phần xuất phát các chủ trang trại
Chi phí sản xuất của các trang trại
Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ
Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang
trại điều tra năm 2007.
Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007
Trang
43
44
46
48
50
51
56
58
61
63
65
69
76
78
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện
ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu chung:
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại
sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao.
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc,
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản
xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất
khẩu.
+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và
các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa
giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang
trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại
Từ tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ.
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm
2006-2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá
sự phát triển của các trang trại.
4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu:
Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong
thời gian qua.
Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ
từ nay đến năm 2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
CHƢƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở khoa học:
I. Cơ sở lý luận:
1. Quan niệm về kinh tế trang trại:
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế
kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô
hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm
tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các
nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên
của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy
mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc
biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý
kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển,
phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình
công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản
xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông
nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng.
Kinh tế trang trại ra đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
2- Bản chất của kinh tế trang trại:
Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng
như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính
tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông
nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ.
Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản
xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có
sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và
nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và
trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn
điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp,
đồn điền .vv...
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau:
- Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói
trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản
xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ,
song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực
tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu
cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như:
Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và
đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê,
Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của
một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia
trang ở Trung Quốc, Việt Nam...
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối
của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và
sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một
trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ
thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung
trước chủ nghĩa tư bản.
Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm:
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu
sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều
kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu
nhập và lợi nhuận.
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở
hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập
trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập.
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục
đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức
tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp
mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
- Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư
bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân
và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên
nhiều vùng.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những
biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các
phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang
tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại".
“Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương
đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy
của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông
dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn
liền với kinh tế thị trường.
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất
"Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành
và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng
đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở
nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan
trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của
Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách
giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế
cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và
lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia
đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua.
3. Khái niệm về kinh tế trang trại
Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản
lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về
kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về
kinh tế trang trại.
Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang
trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất
phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế
trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có
sự thống nhất.
Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của
trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là
chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài
mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường.
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các
quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại,
quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa
người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau...
Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng.
Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại
thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại.
Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt
kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại.
Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải
thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của
trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông,
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm,
ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở
khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân...
Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành
phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các
chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh
nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại
nếu có đủ điều kiện.
Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên
tắc quy định.
Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các
hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích
sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các
yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một