Tếch (Tectona grandis Linn.f.)thuộc họTếch (VerbenaceaeJaume) là một 
loài cây gỗlớn trong chi(Tectona),cao tới 30 –40 m, đường kính có thểđạt trên
100cm[1, tr.402]. Tếch được đánh đánh giá là một trong những loài cây gỗquý, sinh 
trưởngnhanh, biên độsinh thái rộng.Tếch có phân bốtựnhiên ở Ấn Độ, Miến Điện, 
Thái Lan, Lào và được trồng thành công trên diện tích hàng triệu ha ởcảnhững nơi 
nằm ngoài khu phân bốtựnhiên như Sri Lanka, Bangladesh, Trung Quốc, Việt Nam, 
Brazil, Ecuador,v.v.Tính đến năm 1990, tổng diện tích rừng trồng Tếch trên thế
giới là 1,6 triệu ha, chiếm 75% diện tích trồng cây gỗcứng chất lượng cao của nhiệt 
đới [8]. GỗTếch cứng, nặng, thớgỗmịn, màu vàng hoặc nâu nhạt, có ánh phản 
quang, vân đẹp, có mùi thơm,dễphơi khô, hệsốco rút nhỏ, không bịcong vênh, nứt 
nẻ, chịu được mưa nắng, chịu được nước biển, không bịhà, không bịmối mọt. Vì thế, 
gỗ Tếch thường được dùng đểđóng tầu, toa xe, xẻván sàn, điêu khắc, làm các đồ
dùng quý trong gia đình, tà vẹt, báng súng, cầu phà, nhất là làm gỗlạng có giá trị
xuất khẩu cao, v.v. Tại Châu Á - Thái Bình Dương nhiều nước đã trồng thành công
và biến vùng này thành thịtrường truyền thống gỗ Tếch trên thếgiới với sản lượng 
trung bình 4 triệu m
3
/năm lấy từgỗcó đườngkính 6 cm trởlên[2, tr.6-7]. 
Đặc biệt, Tếch là một loài cây có khảnăng cải tạo đất, cải tạo môi trường, 
phiến lá to 20-40cm, dầy, có khảnăng hút bụi và CO
2
nên cũngrất được ưa chuộng 
làm cây trồng dọc theo các tuyến đường giao thông,nhằm tạo cảnh quan sinh thái và 
bảo vệmôi trường.
Do tầm quan trọng củagỗTếch, tháng3/1991, cuộc hội thảo quốc tế đầu tiên 
chuyên đềvềTếch (Teak) được tổchức tại Quảng Châu, Trung Quốcdưới sựđồng 
bảo trợcủa FAO và BộLâm nghiệp nước chủnhà; Tiếptháng 5/1995, mạng lưới 
quốc tếnghiên cứu và phát triển cây Tếch của các nước vùng Châu Á –Thái Bình 
Dương đã được thành lập với tên gọi là TEAKNETnhằm thúc đẩy sựtương tác và 
chia sẻcác nguồn thôn tin giữa các bên liên quan của ngành gỗTếch (nhà quản lý, 
nhà khoahọc, nông dân, thương gia)[3]. 
Tại Việt Nam, Tếch đã được đưa vào gây trồng từđầu thếkỷ XXtại một số 
2
vùng Tây Bắc, Nam Trung Bộvà khu vực Tây Nguyênnhư: Đồng Nai, Sông Bé, Tây 
Ninh, Đắc Lắc, Hà Nội, Sơn La, v.v. Tuy là một loài nhập nội, nhưng quaquá trình 
khảo nghiệm đã chứng tỏcây Tếch đặc biệt thích hợp với điều kiện sinh thái ởViệt 
Nam.
Sơn La là một tỉnh biên giới phía Tây Bắc của Việt Nam, có phía Bắc giáp 
Yên Báivà Lai Châu, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóavà các tỉnh Louangphabang, 
Houaphancủa Lào, phía Đông giáp Hòa Bìnhvà Phú Thọ, phía Tây giáp Điện Biên. 
Có điều kiện địa hình, đất đai và khí hậu khá phù hợp với nhu cầu sinh thái của loài 
Tếch. Vì thế, trong chương trình327 và chương trình GTZ của Đức, Tếch là loài cây 
được đưa vào gây trồng ởrất nhiều các huyện của tỉnh Sơn La: Mai Sơn, Yên Châu, 
Phù Yên, Thuận Châutừnăm 1994.Mục tiêu chiến lược của các dựán nhằm phủ
xanh đất trống đồi núi trọc, đáp ứng nhu cầu vềgỗđồmộc cao cấp, giảm áp lực khai 
thác gỗ từrừng tựnhiên đồng thời mởra hướng mới trong kinh doanh rừng trồng, tạo 
công ăn việc làm, phát triển kinh tếcho người dân sống trên địa bàn. Tuy nhiên, 
muốn làm được điều đó thì cần phải có những hiểu biết tốt vềđặc điểm lâm học, các 
quy luật kết cấuvà cấu trúc của lâm phần, những kiến thức vềtrồng, chăm sóc, nuôi 
dưỡng rừng, sản lượng và năng suất rừng. 
Từtrước đếnnay, ởViệt Namđã có rất nhiều các công trình công bốvềcây 
Tếch. Trong đóđáng kểnhất là những nghiên cứu của Phạm ThếDũng (1990)[4], 
Nguyễn Xuân Quát (1995)[7], Bảo Huy (1995)[5], Nguyễn Ngọc Lung (1999)[6], 
v.v. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu mới chỉtập trung tại khu vực Nam Trung Bộ
vàTây Nguyên, còn vùng Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng vẫn chưa có công 
trình khoahọc nào nghiên cứu chi tiết rừng Tếch tại địa phương. Xuất phát từthực 
tiễn đó, tôi thực hiện đềtài: "Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng trồng Tếch 
(Tectona grandis Linn.f.) làm cơ sởkhoa học cho việc đềxuất một số biệnpháp 
kỹthuật trong trồng rừng ởtỉnh Sơn La"
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 93 trang
93 trang | 
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng trồng Tếch (Tectona grandis Linn.f.) làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số biện pháp kỹ thuật trong trồng rừng ởtỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tếch (Tectona grandis Linn.f.) thuộc họ Tếch (Verbenaceae Jaume) là một 
loài cây gỗ lớn trong chi (Tectona), cao tới 30 – 40 m, đường kính có thể đạt trên 
100cm [1, tr.402]. Tếch được đánh đánh giá là một trong những loài cây gỗ quý, sinh 
trưởng nhanh, biên độ sinh thái rộng. Tếch có phân bố tự nhiên ở Ấn Độ, Miến Điện, 
Thái Lan, Lào và được trồng thành công trên diện tích hàng triệu ha ở cả những nơi 
nằm ngoài khu phân bố tự nhiên như Sri Lanka, Bangladesh, Trung Quốc, Việt Nam, 
Brazil, Ecuador, v.v.. Tính đến năm 1990, tổng diện tích rừng trồng Tếch trên thế 
giới là 1,6 triệu ha, chiếm 75% diện tích trồng cây gỗ cứng chất lượng cao của nhiệt 
đới [8]. Gỗ Tếch cứng, nặng, thớ gỗ mịn, màu vàng hoặc nâu nhạt, có ánh phản 
quang, vân đẹp, có mùi thơm, dễ phơi khô, hệ số co rút nhỏ, không bị cong vênh, nứt 
nẻ, chịu được mưa nắng, chịu được nước biển, không bị hà, không bị mối mọt. Vì thế, 
gỗ Tếch thường được dùng để đóng tầu, toa xe, xẻ ván sàn, điêu khắc, làm các đồ 
dùng quý trong gia đình, tà vẹt, báng súng, cầu phà, nhất là làm gỗ lạng có giá trị 
xuất khẩu cao, v.v.. Tại Châu Á - Thái Bình Dương nhiều nước đã trồng thành công 
và biến vùng này thành thị trường truyền thống gỗ Tếch trên thế giới với sản lượng 
trung bình 4 triệu m3/năm lấy từ gỗ có đường kính 6 cm trở lên [2, tr.6-7]. 
Đặc biệt, Tếch là một loài cây có khả năng cải tạo đất, cải tạo môi trường, 
phiến lá to 20-40cm, dầy, có khả năng hút bụi và CO2 nên cũng rất được ưa chuộng 
làm cây trồng dọc theo các tuyến đường giao thông, nhằm tạo cảnh quan sinh thái và 
bảo vệ môi trường. 
Do tầm quan trọng của gỗ Tếch, tháng 3/1991, cuộc hội thảo quốc tế đầu tiên 
chuyên đề về Tếch (Teak) được tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc dưới sự đồng 
bảo trợ của FAO và Bộ Lâm nghiệp nước chủ nhà; Tiếp tháng 5/1995, mạng lưới 
quốc tế nghiên cứu và phát triển cây Tếch của các nước vùng Châu Á – Thái Bình 
Dương đã được thành lập với tên gọi là TEAKNET nhằm thúc đẩy sự tương tác và 
chia sẻ các nguồn thôn tin giữa các bên liên quan của ngành gỗ Tếch (nhà quản lý, 
nhà khoa học, nông dân, thương gia) [3]. 
Tại Việt Nam, Tếch đã được đưa vào gây trồng từ đầu thế kỷ XX tại một số 
 2 
vùng Tây Bắc, Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên như: Đồng Nai, Sông Bé, Tây 
Ninh, Đắc Lắc, Hà Nội, Sơn La, v.v.. Tuy là một loài nhập nội, nhưng qua quá trình 
khảo nghiệm đã chứng tỏ cây Tếch đặc biệt thích hợp với điều kiện sinh thái ở Việt 
Nam. 
Sơn La là một tỉnh biên giới phía Tây Bắc của Việt Nam, có phía Bắc giáp 
Yên Bái và Lai Châu, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh Louangphabang, 
Houaphan của Lào, phía Đông giáp Hòa Bình và Phú Thọ, phía Tây giáp Điện Biên. 
Có điều kiện địa hình, đất đai và khí hậu khá phù hợp với nhu cầu sinh thái của loài 
Tếch. Vì thế, trong chương trình 327 và chương trình GTZ của Đức, Tếch là loài cây 
được đưa vào gây trồng ở rất nhiều các huyện của tỉnh Sơn La: Mai Sơn, Yên Châu, 
Phù Yên, Thuận Châu từ năm 1994. Mục tiêu chiến lược của các dự án nhằm phủ 
xanh đất trống đồi núi trọc, đáp ứng nhu cầu về gỗ đồ mộc cao cấp, giảm áp lực khai 
thác gỗ từ rừng tự nhiên đồng thời mở ra hướng mới trong kinh doanh rừng trồng, tạo 
công ăn việc làm, phát triển kinh tế cho người dân sống trên địa bàn. Tuy nhiên, 
muốn làm được điều đó thì cần phải có những hiểu biết tốt về đặc điểm lâm học, các 
quy luật kết cấu và cấu trúc của lâm phần, những kiến thức về trồng, chăm sóc, nuôi 
dưỡng rừng, sản lượng và năng suất rừng. 
Từ trước đến nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều các công trình công bố về cây 
Tếch. Trong đó đáng kể nhất là những nghiên cứu của Phạm Thế Dũng (1990)[4], 
Nguyễn Xuân Quát (1995)[7], Bảo Huy (1995)[5], Nguyễn Ngọc Lung (1999)[6], 
v.v.. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ tập trung tại khu vực Nam Trung Bộ 
và Tây Nguyên, còn vùng Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng vẫn chưa có công 
trình khoa học nào nghiên cứu chi tiết rừng Tếch tại địa phương. Xuất phát từ thực 
tiễn đó, tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng trồng Tếch 
(Tectona grandis Linn.f.) làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số biện pháp 
kỹ thuật trong trồng rừng ở tỉnh Sơn La" 
 3 
CHƯƠNG I - TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
1.1. Đặc điểm phân bố tự nhiên và nhận biết của cây Tếch 
1.1.1. Phân bố tự nhiên 
Tếch là loài cây có nguồn gốc nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, phân bố tự 
nhiên ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào. Vùng phân bố tự nhiên của Tếch nằm 
trong khoảng giữa vĩ độ 9o00’ Bắc đến 25o30’ Bắc và kinh độ 73o – 103o độ kinh 
Đông [8]. Tếch cũng thấy xuất hiện khoảng 1 triệu ha ở quần đảo Java (Indonesia). 
Vì thế, Tếch sinh trưởng khá tốt ở Indonesia, nên hiện nay người ta đã coi giới hạn 
phân bố của Tếch ở phía Nam là giữa vĩ độ 5o-9o Nam [9]. 
Tếch phân bố tự nhiên trong khu vực nhiệt đới gió mùa (mùa khô và mùa mưa 
rõ rệt), khí hậu nóng ẩm, mùa đông không quá lạnh, không có bão lớn. Biên độ nhiệt 
độ trung bình từ 20 – 27oC, tổng nhiệt độ lớn hơn 10oC là 8.000oC, nhiệt độ tối cao 
trung bình 400C, nhiệt độ tối thấp trung bình 12,50C. Lượng mưa từ 1.300 – 2.990 
mm/năm [10], [11], [12]. 
Tếch phân bố tự nhiên từ độ cao gần mặt biển đến độ cao khoảng 1000m so 
với mặt nước biển. Tếch sinh trưởng không tốt trên những đất hình thành từ cuội kết, 
sa thạch hoặc đá ong. Tếch ưa thích đất phát triển từ đá granit, bazan và phiến sét. 
Tếch đòi hỏi đất thoát nước và không chịu được đất úng nước. Nó ưa thích môi 
trường đất có pH từ 6,5 – 8,0, đủ canxi, photpho và magie [10], [11], [12]. 
1.1.2. Đặc điểm nhận biết 
Trên thế giới có 3 loài Tếch – là Tectona grandis Linn.f., Tectona 
philippinensis Beth & Hokkf và Tectona hamiltonia Wallich. Loài Tếch được trồng 
thành rừng ở tỉnh Sơn La có tên khoa học là Tectona grandis Linn.f. 
Theo Lê Mộng Chân, Nguyễn Thị Huyên (2000) [1], Tếch là loài cây gỗ lớn, 
cành non vuông, cạnh phủ nhiều lông màu gỉ sắt, khi dập có mủ đỏ. Lá đơn, mọc đối, 
hình trứng ngược, chiều dài có thể đạt tới 40cm hoặc hơn, rộng trên 20cm, phiến 
xoan bầu dục, có màu lục tươi, mặt dưới lá có lông hình sao vàng; rụng lá từ tháng 2 
đến tháng 3 dương lịch. Hoa tự hình xim viên chuỳ, dài 40 cm, đường kính trên 35 
cm. Hoa có lá bắc nhỏ hình lưỡi mác. Hoa nhỏ dài hình chuông mép có 5 răng đều, 
 4 
phía ngoài phủ dầy lông. Tràng hoa mầu trắng, ống đài 5-6mm, cánh tràng 5-6, gần 
tròn, phía ngoài phủ lông và các tuyến nhỏ. Nhị 5-6 hơi lộ ra ngoài. Bầu hình nón, 
vòi ngắn, đầu nhuỵ xẻ đôi. Quả hạch hình cầu, đường kính gần 2cm, phủ dầy lông 
hình sao. Đài phát triển bao kín quả, hạt 1-2 (đôi khi 3-4). 
Hình 1.1. Đặc điểm hình thái cây Tếch (Tectona grandis Linn.f.) được gây trồng 
tại xã Chiềng Hặc – Yên Châu – Sơn La (chụp 8/2010) 
Theo Lê Mộng Chân (2000) [1], ở điều kiện sống thích hợp, cây mọc khá 
nhanh, cây 20 tuổi có thể cao 18m, đường kính 22cm. Theo Kadambi (1979) [13], 
Tếch là loài cây của rừng nửa rụng lá nhiệt đới gió mùa. Ở rừng tự nhiên, Tếch 
trưởng thành có thể đạt chiều cao 40m, đường kính 1-2m. Tếch có thân thẳng, nhiều 
hoa nhưng tới 90% không hình thành quả. Tếch sinh sản sớm, thông thường từ tuổi 
8-10. Thời kỳ ra hoa là giữa tháng 7 đến tháng 9 hàng năm; Quả chín và rụng từ 
tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau. Quả chín có vỏ màu nâu vàng. Tếch tái 
sinh chồi tốt ở tuổi non, do đó có thể được trồng bằng thân cụt. 
 5 
1.2. Những nghiên cứu về loài cây Tếch trên thế giới 
1.2.1. Những nghiên cứu chung về quy luật cấu trúc lâm phần 
Trên thế giới, ngay từ những năm đầu của thế kỷ 20, đã có nhiều công trình 
nghiên cứu về cấu trúc rừng, nhất là về các quy luật kết cấu của lâm phần. Đặc biệt 
với sự phát triển của thống kê toán học và tin học, việc mô hình hoá các quy luật cấu 
trúc lâm phần bằng các mô hình toán học đã mở ra bước phát triển mới trong lâm 
sinh học hiện đại. 
- Về phân bố số cây theo đường kính, chiều cao. 
Phân bố số cây theo đường kính là quy luật cấu trúc cơ bản của lâm phần đã 
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của 
Meyer (1972)[14]. Ông mô tả phân bố số cây theo đường kính bằng mô hình toán 
học mà dạng của nó là đường cong giảm liên tục. Phương trình này được gọi là 
phương trình Meyer. Một số tác giả khác đã dùng phương pháp giải tích để tìm 
phương trình đường cong phân bố. Loetsch (1973)[15] dùng hàm Bêta để nắn các 
phân bố thực nghiệm. J.L.F Batista và H.T.Z Doucoto (1992)[16] trong khi nghiên 
cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài cây rừng ở Maranhoo – Brazin đã dùng hàm Weibull 
mô phỏng phân bố N/D. Nhìn chung các tác giả đều biểu diễn quy luật phân bố số 
cây theo đường kính dưới dạng phân bố xác xuất, các hàm thường hay sử dụng là 
hàm Weibull, hàm mũ, hàm chuẩn, hàm logarit, hàm bêta, hàm gama, v.v.. 
Ngoài việc sử dụng các hàm toán học để biểu thị quy luật cấu trúc lâm phần, 
đối với rừng tự nhiên, quy luật phân bố số cây theo chiều cao còn được thể hiện 
thông qua phương pháp trắc đồ rừng. Vẽ các phẫu đồ đứng với các kích thước khác 
nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Các trắc đồ này đã mang lại hình ảnh khái quát 
về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét 
và đề xuất ứng dụng trên thực tế, điển hình cho hướng nghiên cứu này là các công 
trình của P.W. Richards (1952) [17], Rollet (1979) [18] 
- Tương quan chiều cao với đường kính (H/D) 
Qua nhiều nghiên cứu của các tác giả đi trước cho thấy mối tương quan giữa 
đường kính và chiều cao là một tương quan chặt chẽ. Theo quy luật sinh trưởng của 
 6 
cây rừng - khi tuổi tăng lên thì đường kính và chiều cao cũng tăng lên. Tuy nhiên quy 
luật này chỉ tồn tại trong một giới hạn cho phép của cây rừng trong quá trình sinh 
trưởng. Trong lâm phần, khi tuổi tăng thì tỉ lệ H/D cũng tăng. Từ đó đường cong biểu 
thị quan hệ H/D có thể bị thay đổi. Đường cong luôn chuyển dịch lên phía trên khi 
tuổi lâm phần tăng lên. Phương trình toán học cụ thể biểu thị mối quan hệ này rất 
phong phú và đa dạng. Hohenadl, Krenn, Michailof, Naslund, Anoutchia, Echert, 
Keusn, Meyer Mucler, Soest đã đề nghị sử dụng các phương trình dưới đây để mô tả 
quan hệ H/D (dẫn theo tài liệu [19]): 
h = a0 + a1d + a2d2 (1.1) 
H - 1.3=d2/(a + bd)2 (1.2) 
h = a.db (1.3) 
logh = a + blogd (1.4) 
h-1.3=a(1-e-ed) (1.5) 
h-1.3=a.e-b/d (1.6) 
log(h-1.3)=loga-blog(e/d) (1.7) 
h=a(blnd-elnd) (1.8) 
h = a0 + a1d1 + a2d2 + a3d3 (1.9) 
h = a0 + a1d + a2logd (1.10) 
h =a + blogd (1.11) 
1.2.2. Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng và các giải pháp kỹ 
thuật lâm sinh trong kinh doanh rừng trồng Tếch 
a) Những nghiên cứu về sinh trưởng, sản lượng 
Khi nghiên cứu về rừng Tếch ở Ấn Độ, Kadambi (1979) [13] cho rằng sự 
khác biệt về sinh trưởng đường kính và chiều cao của rừng Tếch là do sự khác biệt về 
lập địa và nguồn gốc rừng khác nhau. 
D.Alder (1980) [20] đã có tổng hợp hết sức phong phú về các phương pháp 
nghiên cứu sinh trưởng và sản lượng rừng như: Xây dựng mô hình sinh trưởng, tăng 
trưởng cây rừng và lâm phần, thiết lập đường cong sinh trưởng bình quân bằng 
 7 
phương pháp phân tích hồi quy theo nhóm của Bailey – Clutter, phương pháp Affill 
để phân chia các đường cong sinh trưởng chỉ thị cấp đất, lý thuyết Marsh làm cơ sở 
dự đoán sản lượng. 
Cùng với ESCAP và FAO, các nước Châu Á – Thái Bình Dương đã thành lập 
mạng lưới nghiên cứu phát triển cây Tếch. Tại Trung Quốc, năm 1991 hội thảo quốc 
tế về cây Tếch đã đưa ra một số điều kiện sinh thái thích hợp cho trồng Tếch như: 
Khí hậu, lập địa, tổ thành cây bạn, phương pháp trồng, v.v.. khuyến nghị tổng kết 
phương thức trồng rừng Tếch thuần loại hoặc khảo nghiệm ở quy mô nhỏ để rút ra 
các ưu trội so với phương thức trồng hỗn loài truyền thống (dẫn theo tài liệu [5]). Sau 
cuộc hội thảo lần thứ nhất, năm 1995 cuộc hội thảo cây Tếch lần 2 đã được tiến hành 
tại Myanma và mạng thông tin quốc tế về Tếch đã được thành lập với tên gọi – 
TEAKNET. 
Theo Siswamartana (1995) [21], rừng Tếch ở Indonesia đã được nghiên cứu 
chi tiết về tăng trưởng, sản lượng và năng suất trên 3 cấp đất. Trên cấp đất III, rừng 
tếch ở tuổi 10 có mật độ 1.452 cây/ha, D=9,1cm; H=11,4m; trữ lượng gỗ trên cây 
nuôi dưỡng 39,6m3/ha; năng suất trung bình 5,8m3/ha; lượng tăng trưởng hàng năm 
6,9m3/ha. Ở tuổi 20, mật độ 766 cây/ha, D = 14,3cm, H = 16,1m, trữ lượng gỗ trên 
cây nuôi dưỡng 64,8m3/ha, năng suất trung bình 5,9m3/ha/năm; lượng tăng trưởng 
hàng năm 5,0 m3/ha/năm. Từ tuổi 30 trở đi, năng suất rừng giảm nhanh, trong đó 
năng suất trung bình 4,7 m3/ha/năm ở tuổi 30 và 4,0 m3/ha/năm ở tuổi 80 năm. 
Ở các nước có Tếch tự nhiên hoặc diện tích rừng Tếch lớn đều có những khảo 
sát, đánh giá sinh trưởng, năng suất, tiêu biểu như công trình nghiên cứu của 
Wycherley FR. (1966) [22] ở Thái Lan và Vaclav E. (1972) [23] ở Bangladesh, v.v.. 
Đồng thời để làm cơ sở cho việc xác định giải pháp kỹ thuật lâm sinh như: Mật độ 
trồng rừng, tỉa thưa, mật độ tối ưu, v.v.. hoặc dự đoán các chỉ tiêu kỹ thuật trong điều 
chế rừng như: Chặt nuôi dưỡng, trữ sản lượng từng thời điểm, lượng khai thác chính, 
kích thước sản phẩm, chu kỳ kinh doanh theo từng điều kiện hoàn cảnh trồng rừng, 
v.v.. thì tại các nước Myanmar, Ấn Độ, Nigeria, Brazin, v.v.. đã xây dựng các biểu 
sản lượng riêng về cây Tếch (dẫn theo tài liệu [5]). 
 8 
Tổng kết những báo cáo về năng suất rừng tếch trồng ở những khu vực khác 
nhau của Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ, Kaosa-and (1995)[11] đã đi đến nhận định 
rằng: Năng suất trung bình của rừng tếch trồng là 8 -10m3/ha/năm và có biến động 
mạnh không chỉ giữa các vùng địa lý khác nhau, mà còn trong phạm vi một nước. 
Ông cho rằng, hiện nay vẫn còn thiếu những tài liệu về tăng trưởng, sản lượng và 
năng suất rừng trồng tếch của các nước. Nhiều nước vẫn chưa phân chia cấp đất và 
xây dựng biểu quá trình sinh trưởng quần thụ tếch. Hệ thống phân chia cấp đất cho 
những lâm phần tếch không giống nhau giữa các nước. 
Theo Ly Meng Seang (2008) [24] khi nghiên cứu về rừng trồng Tếch ở 
Campuchia đã cho thấy, sinh trưởng đường kính và chiều cao bình quân của những 
quần thụ Tếch trong khoảng 18 năm đầu thay đổi rõ rệt theo 2 giai đoạn tuổi – đó là 
giai đoạn sinh trưởng nhanh từ 1 – 7 tuổi và sinh trưởng chậm từ 8 -18 tuổi. 
b) Những nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh 
rừng Tếch 
Hiện nay Tếch đã được trồng thành rừng cả ở trong và ngoài phạm vi phân bố 
tự nhiên của nó ở nhiệt đới. Khu vực này bao phủ một vùng khí hậu rộng lớn, từ kiểu 
khí hậu xích đạo đến kiểu khí hậu á nhiệt đới, với lượng mưa từ 500 – 3.500 mm và 
biên độ nhiệt độ từ 2o – 48oC. Điều kiện đất trồng rừng Tếch cũng rất khác nhau, từ 
đất chua nghèo đến đất bùi tụ màu mỡ [11] 
Khi nghiên cứu đặc tính của đất dưới rừng Tếch trồng 1, 15, 30, 60 và 120 
năm, Jose và Koshy (1972) đã nhận thấy rằng: Mặc dù hình thái, tính chất vật lý và 
hoá học của đất có sự thay đổi, nhưng hàm lượng chất hữu cơ ở tầng đất mặt dưới 
rừng Tếch tự nhiên và rừng Tếch trồng 120 tuổi là tương tự nhau. Đất tầng mặt dưới 
rừng trồng Tếch non có tỷ trọng và hàm lượng cát cao hơn, nhưng độ xốp và khả 
năng hút nước kém hơn so với rừng tự nhiên (dẫn theo [24]). 
Theo Kaosa-ard (1981), (1995) [10], [11] cho rằng: Kích thước, chất lượng, 
mật độ, hình thái thân cây và tăng trưởng của rừng Tếch bị kiểm soát bởi một số yếu 
tố như lượng mưa và phân bố lượng mưa trong năm, độ ẩm đất, đặc tính đất và ánh 
sáng. Ngoài ra, màu sắc và cấu trúc của gỗ Tếch cũng chịu ảnh hưởng của lập địa. 
 9 
Đồng thời tác giả cũng chỉ ra rằng, Tếch sinh trưởng tốt nhất trên đất bồi tụ (phù sa) 
sâu và thoát nước tốt được hình thành trên nền các loại đá vôi, phiến thạch, phiến sét 
và một số loại đá do núi lửa hình thành như Bazan. Ngược lại khi mọc ở điều kiện đất 
cát khô, đất có tầng mỏng, đất chua (pH<6,0) có nguồn gốc từ feralit, đất than bùn, 
đất cứng hoặc bị úng nước, thì Tếch sinh trưởng rất kém, hình thái thấp và xấu. 
Theo Kadambi (1979) [13], ngoài lập địa, chất lượng hạt giống, tiêu chuẩn 
cây con thì thành công của trồng rừng Tếch còn phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật lâm 
sinh (khoảng cách trồng, chăm sóc, phòng chống cháy, phòng trừ dịch bệnh, tỉa thưa, 
v.v..) 
Tại Thái Lan, ở những nơi không áp dụng phương thức nông lâm kết hợp 
Tếch được trồng với mật độ 1.100 cây/ha (hay 3*3m), còn ở những nơi áp dụng 
phương thức nông lâm kết hợp mật độ trồng ban đầu là 1.250 cây/ha (hay 4*2m) 
(dẫn theo [11]). Sau khi tổng kết mật độ trồng rừng ở các nước trên thế giới, 
Kaosa-ard (1995) [11] cho rằng: Khi không thực hiện phương thực nông lâm kết hợp, 
thì mật độ trồng rừng Tếch thay đổi từ 1.100 cây/ha (3*3m), 1.250 cây/ha (4*2m) 
đến 2.500 cây/ha (2*2m) và 3.333 cây/ha (3*1m). Tuy nhiên, nếu trồng rừng với mật 
độ (3*3m) hoặc thưa hơn thì đất sẽ bị xói mòn rất mạnh. 
Các nhà khoa học lâm nghiệp cũng rất quan tâm đến vấn đề chặt nuôi dưỡng 
rừng trồng Tếch nhằm đạt đến mục tiêu kinh doanh. Đối với Tếch, phương thức nuôi 
dưỡng chủ yếu là chặt tỉa thưa. Thời điểm bắt đầu và kết thúc tỉa thưa, số lần tỉa thưa, 
cường độ tỉa thưa và phương pháp tỉa thưa rừng Tếch được đề nghị khác nhau tuỳ 
theo lập địa, khoảng cách trồng, phương thức trồng xen. Theo Kadambi (1979) [13], 
Ấn Độ tỉa thưa rừng Tếch được phân thành 2 loại: Tỉa thưa sớm và tỉa thưa muộn. 
Tỉa thưa sớm được thực hiện trong giai đoạn rừng Tếch dưới 20 tuổi. Mục tiêu của 
tỉa thưa sớm là mở rộng không gian cho rừng Tếch phát triển tốt hệ thống tán lá. Tỉa 
thưa muộn chỉ được áp dụng cho những rừng Tếch trồng trên không gian rộng, với 
cường độ kinh doanh cao. Mục tiêu của tỉa thưa muộn tạo cho rừng cung cấp gỗ chất 
lượng cao thông qua tỉa thưa với cường độ mạnh và tuyển chọn cây tốt để nuôi 
dưỡng. Đồng thời tác giả cũng cho rằng: Tếch là loài cây ưa sáng mạnh, do đó sử 
 10 
dụng biện pháp tỉa thưa mạnh là biện pháp cần thiết, song khoảng cách giữa những 
cây để loại nuôi dưỡng sau khi tỉa thưa phải đồng đều. 
Theo Kaosa-ard (1995) [25] khi chu kỳ kinh doanh rừng trồng Tếch là 25 – 30 
năm nhằm cung cấp gỗ nhỏ và trung bình, mật độ trồng rừng ban đầu là (1,8*1,8m) 
hoặc (2,0*2,0m) thì việc tỉa thưa rừng Tếch có thể được thực hiện qua 2 lần. Lần 1 
được bắt đầu thực hiện vào tuổi 5 còn lần 2 tương ứng tuổi 10. Phương pháp tỉa thưa 
là tỉa thưa cơ giới (chặt hàng cách hàng hoặc chặt cây cách cây trong hàng). Cường 
độ tỉa thưa lần 1 là 50% số cây ban đầu, lần 2 là 50% số cây để lại sau lần tỉa thưa thứ 
nhất. 
Theo Siswamartana (1995) [21], chu kỳ kinh doanh rừng Tếch ở Indonesia 
trên lập địa tốt là 40 năm, còn trên lập địa xấu là 80 năm. Mục tiêu kinh doanh là tạo 
gỗ lớn có chất lượng cao. Trong 20 năm đầu, rừng Tếch được tỉa thưa 5 lần với kỳ 
dãn cách 4 năm. Từ năm thứ 20 trở đi, kỳ dãn cách 10 năm. Số cây tỉa thưa được quy 
định theo biểu quá trình sinh trưởng của quần thụ. Việc tuyển chọn cây tỉa thưa phải 
đảm bảo nguyên tắc nâng cao chất lượng quần thụ và cải thiện chất lượng gỗ ở cuối 
kỳ kinh doanh. 
Hiện nay có rất nhiều phương pháp xác định mật độ tối ưu khác nhau như 
P.R.Kelle (1932), B.A.Suxtov (1938), V.G.Nesterov (1952), B.V.Belov (1983), 
H.Thomasius (1972), I.C.Melekhov (1989), v.v.. Tuy nhiên, tất cả các tác giả đều có 
một đặc điểm chung là tìm kiếm các phương pháp để xác định được không gian sống 
thích hợp cho từng loài ở từng thời điểm nhất định. Theo H.Thomasius (1972), 
không gian dinh dưỡng trên mặt đất của một cây được giới hạn bằng một hình viên 
trụ đứng có tiết diện bằng diện tích hình chiếu thẳng đứng của tán lá và giới hạn bằng 
chiều cao của cây đó. Như vậy, để xác định được mật độ tối ưu trước hết phải xác 
định được không gian dinh dưỡng thích hợp. Không gian này ngoài phụ thuộc vào 
chiều cao (chỉ tiêu phân chia cấp đất) còn phụ thuộc vào diện tích hình chiếu tán lá 
bình quân của những cây sinh trưởng tốt trong lâm phần (dẫn theo [26]). 
1.2.3. Nghiên cứu về phân cấp sinh trưởng cây rừng 
Cấp sinh trưởng cây rừng là một trong những chỉ tiêu quan