Trong những năm gần đây, hòa nhập với những biến đổi lớn lao của nền kinh tế, ngành công nghiệp khai thác than nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay ngành đã thu hút hàng triệu lao động tham gia trong các hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Hàng năm, vốn đầu tư vào lĩnh vực khai thác than chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trong ngân sách Nhà nước. Ngành công nghiệp khai thác than cũng đã vươn lên về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh về sản phẩm của ngành, các địa phương, các doanh nghiệp cũng như các hộ dân cư trong cả nước. Nhiều công ty khai thác than lộ thiên của nước ta đã và đang có những bước phát triển vượt bậc.
Trong những năm qua Công ty CP than Đèo Nai - Vinacomin đã không ngừng phát triển về mọi mặt. Trong nền kinh tế quốc dân hiện nay, công nghiệp khai thác tài nguyên và khoáng sản chiếm một vị trí quan trọng trong đó công nghiệp khai thác than chiếm tỷ trọng khá lớn vì than là một mặt hàng xuất khẩu vào loại chủ lực của nước ta.
Than là loại nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp và trong đời sống hàng ngày. Khi còn sống Bác Hồ đã coi những người sản xuất than “như quân đội đánh giặc”. Cho nên việc khai thác than lấy than từ lòng đất “than là vàng đen của tổ quốc” làm giàu cho đất nước là việc hết sức quan trọng không thể thiếu trong công nghiệp nhất là thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Nhận rõ tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư tích cực, xây dựng và phát triển ngành than vì vậy ngành than được đầu tư, trang bị máy móc dưới nhiều hình thức khá hiện đại để đáp ứng được trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
125 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2362 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Các đánh giá, kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào khác trước đó.
Hà Nội, ngày 08 tháng 4 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Văn Hoàng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô trong Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh trường Đại học Mỏ địa chất đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian học tập cũng như thực hiện Luận văn. Kiến thức mà các thầy cô truyền đạt sẽ là hành trang giúp tôi vững bước hơn trên con đường đời sau này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS Đinh Đăng Quang đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp. Nhờ có sự hướng dẫn của thầy mà tôi đã hoàn thành được Luận văn của mình và tích luỹ được nhiều kiến thức quý báu trong môi trường tôi đang công tác.
Tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân đã động viên tôi rất nhiều trong thời gian vừa qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chúc Quý thầy cô và các bạn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt trong cuộc sống ./.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCNV Cán bộ công nhân viên
CPH Cổ phần hóa
CTCP Công ty cổ phần
NLSX Năng lực sản xuất
NPV Giá trị hiện tại ròng
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
PV Giá trị hiện tại
TSCĐ Tài sản cố định
TSNH Tài sản ngắn hạn
TTCK Thị trường chứng khoán
USD Đô la Mỹ
VCĐ Vốn cố định
VINACOMIN Tập Đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
VLĐ Vốn lưu động
VND Việt Nam đồng
XDCB Xây dựng cơ bản
XN Xí nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng phân tích so sánh các chỉ tiêu bảng cân đối kế toán 46
Bảng 2.2: Phân tích so sánh các chỉ tiêu báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 48
Bảng 2.3. Bảng phân tích cơ cấu tài sản của Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin 52
Bảng 2.4: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn của Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin 54
Bảng 2.5: Tình hình đảm bảo nguồn vốn của Công ty 56
Bảng 2.6: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty qua các năm 58
Bảng 2.7: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty qua các năm 61
Bảng 2.8 Hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty qua các năm 65
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Mối quan hệ giữa TSCĐ, TSLĐ thường xuyên và TSLĐ tạm thời 80
Hình 3.2. Mô hình nguồn tài trợ 1 81
Hình 3.3. Mô hình nguồn tài trợ 2 82
Hình 3.4. Mô hình nguồn tài trợ 3 84
Hình 3.5. Biểu đồ biểu diễn phương trình phát triển bền vững 97
MỞ ĐẦU
1. TÝnh cÊp thiÕt cña ®Ò tµi
Trong những năm gần đây, hòa nhập với những biến đổi lớn lao của nền kinh tế, ngành công nghiệp khai thác than nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay ngành đã thu hút hàng triệu lao động tham gia trong các hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Hàng năm, vốn đầu tư vào lĩnh vực khai thác than chiếm tỷ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trong ngân sách Nhà nước. Ngành công nghiệp khai thác than cũng đã vươn lên về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh về sản phẩm của ngành, các địa phương, các doanh nghiệp cũng như các hộ dân cư trong cả nước. Nhiều công ty khai thác than lộ thiên của nước ta đã và đang có những bước phát triển vượt bậc.
Trong những năm qua Công ty CP than Đèo Nai - Vinacomin đã không ngừng phát triển về mọi mặt. Trong nền kinh tế quốc dân hiện nay, công nghiệp khai thác tài nguyên và khoáng sản chiếm một vị trí quan trọng trong đó công nghiệp khai thác than chiếm tỷ trọng khá lớn vì than là một mặt hàng xuất khẩu vào loại chủ lực của nước ta.
Than là loại nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp và trong đời sống hàng ngày. Khi còn sống Bác Hồ đã coi những người sản xuất than “như quân đội đánh giặc”. Cho nên việc khai thác than lấy than từ lòng đất “than là vàng đen của tổ quốc” làm giàu cho đất nước là việc hết sức quan trọng không thể thiếu trong công nghiệp nhất là thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Nhận rõ tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư tích cực, xây dựng và phát triển ngành than vì vậy ngành than được đầu tư, trang bị máy móc dưới nhiều hình thức khá hiện đại để đáp ứng được trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Là một thành viên trong Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Công ty CP than Đèo Nai - Vinacomin đã xác định được vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc sản xuất kinh doanh. Đó là cần phải cải tiến các công nghệ sản xuất và có những biện pháp tích cực để đưa sản lượng hàng năm tăng lên không ngừng đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt cho nhu cầu thị trường, mở rộng thị trường tiêu thụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng thu nhập ổn định và từng bước nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ mà cấp trên giao cho và đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước đầy đủ. Muốn vậy vấn đề đáng quan tâm đặt ra là sản xuất kinh doanh không nằm trong tình trạng mất cân đối.
Hiện nay, các doanh nghiệp khai thác than lộ thiên nói chung đang gặp phải vấn đề khó khăn về quản lý và sử dụng vốn cho đầu tư máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ, thiếu vốn để hoàn thiện các dự án đang dở dang và vốn đầu tư cho dự án đang mở rộng sản xuất kinh doanh...v..v.. làm cho hiệu quả của việc sử dụng vốn không được cao. Và thực tế đã cho thấy có rất nhiều dự án khai thác than do yếu kém trong công tác quản lý vốn và sử dụng vốn nên bị chậm tiến độ, chất lượng sản phẩm cũng bị ảnh hưởng. Xuất phát từ nhận thức và tầm quan trọng của vốn kinh doanh đối với tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp khai thác than nói riêng trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2025, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Môc ®Ých nghiªn cøu cña ®Ò tµi
Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của các Công ty khai thác than lộ thiên nói chung và của Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiªn cøu cña ®Ò tµi
3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin.
3.2. Phạm vi nghiªn cøu cña ®Ò tµi
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vốn kinh doanh và tình hình sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin.
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Nội dung của đề tài cần giải quyết như sau:
Tổng quan về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp
Thực trạng về quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin
Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin.
5. Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu
Để đạt được mục tiêu trên, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm:
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề vừa toàn diện, vừa cụ thể, có hệ thống đảm bảo tính logic của vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, phương pháp qui nạp, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp phân tích so sánh, phương pháp kế toán... để phân tích các vấn đề, đánh giá và rút ra các kết luận.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt khoa học, đề tài nghiên cứu, hệ thống hoá và tổng kết những lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về mặt thực tiễn, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin, luận văn đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của Công ty trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về vốn và hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích thực trạng vốn kinh doanh, hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin
Chương 3: Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của Công ty cổ phần than Đèo Nai - Vinacomin
Chương 1TỔNG QUAN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề chung về vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau và cùng với quá trình đó sản xuất kinh doanh đã trở thành hoạt động cơ bản nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là các doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Vốn là yếu tố cơ bản và là tiền đề không thể thiếu của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để dự trữ vật tư, mua sắm máy móc thiết bị, chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái khác nhau trong quá trình luân chuyển. Vậy thế nào là vốn kinh doanh?
Trong lý luận và thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm nhìn nhận vốn dưới một góc độ nhất định. Theo lý thuyết kinh tế cổ điển và tân cổ điển: vốn là một trong các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh (đất đai, tài nguyên, lao động, vốn).
Theo Paul Samuelson và William D. Nordhaus thì: “Vốn là khái niệm thường dùng để chỉ các hàng hoá là vốn nói chung, một nhân tố sản xuất. Một hàng hoá làm vốn, khác với nhân tố sơ yếu (đất đai, lao động) ở chỗ: Nó là một đầu vào mà bản thân là một đầu ra của một nền kinh tế gồm: vốn vật chất (nhà máy, thiết bị, kho hàng), vốn tài chính (tiền, chứng khoán, tín phiếu)”. Quan điểm này đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc hình thành vốn, trạng thái biểu hiện của vốn và đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn là chúng vừa là sản phẩm đầu ra, vừa là yếu tố đầu vào của sản xuất nhưng hạn chế cơ bản của quan điểm này là chưa cho thấy mục đích sử dụng của vốn.
Theo Karl Marx “Vốn (tư bản) là giá trị mang lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản xuất”, tức là một yếu tố khi sử dụng trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Tuy nhiên quan niệm này cũng mới chỉ đề cập đến phạm trù tư bản là tiền khi được dùng để mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Nói cách khác, vốn luôn gắn liền với hoạt động của khu vực sản xuất vật chất trực tiếp vì theo Marx chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra của cải vật chất và giá trị thặng dư mà thôi.
Còn David Begg, tác giả cuốn “Kinh tế học” thì cho rằng vốn là các yếu tố của sản xuất và bao gồm hai loại vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn kinh doanh tồn tại ở các hình thái hiện vật như giá trị của các tài sản cố định, hàng hoá, mặt bằng sản xuất kinh doanh,… và vốn tài chính tồn tại ở các hình thái giá trị như tiền và các giấy tờ có giá thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Theo ý nghĩa kinh tế, một số quan điểm lại cho rằng: vốn kinh doanh bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế cạnh tranh như vị trí, uy tín.
Từ các quan điểm trên, có thể hiểu: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một yếu tố của sản xuất, bao gồm tất cả tài sản hữu hình và vô hình, tồn tại dưới hình thái tiền tệ và hiện vật mà doanh nghiệp đang sử dụng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hình thái tiền tệ tạo thuận lợi cho việc tổng hợp, phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nên xét dưới hình thái giá trị có thể cho rằng:
“Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu sinh lời”.
Cũng qua phân tích các quan niệm trên có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của vốn kinh doanh như sau:
Thứ nhất, vốn là một hàng hoá đặc biệt và cũng được lưu thông trên thị trường. Giá cả của vốn hay chi phí sử dụng vốn là lãi suất hay mức doanh lợi kỳ vọng trên thị trường.
Thứ hai, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền cất trữ không phải là vốn. Tiền chỉ trở thành vốn khi nó đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định và được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh để sinh lời. Bản thân tiền cũng chỉ biến thành vốn khi nó được tích tụ và tập trung đến một mức độ đủ lớn để có thể bỏ vào kinh doanh.
Thứ ba, vốn không chỉ là tiền mà luôn luôn biểu hiện dưới các hình thái khác nhau như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính. Từ đặc trưng này, khi huy động vốn vào sản xuất kinh doanh không chỉ tập trung vào huy động vốn bằng tiền mà còn phải rất chú trọng đến các tài sản có sẵn trong từng doanh nghiệp và các giá trị vô hình như vị trí địa lý, bí quyết công nghệ, phát minh sáng chế, giá trị thương hiệu.
Thứ tư, vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay khác một đồng vốn ngày mai do sự biến động của giá cả và lạm phát nên sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là khác nhau.
Từ các đặc trưng trên có thể coi vốn sản xuất kinh doanh là tiền đề của mọi quá trình đầu tư vào sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
1. Xét theo giác độ pháp luật
Trên giác độ pháp luật, vốn kinh doanh được chia làm hai loại: Vốn pháp định và vốn điều lệ.
Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp.
Vốn điều lệ: Là mức vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp theo từng ngành, nghề, vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
2. Xét theo nguồn hình thành
Vốn do ngân sách nhà nước cấp: Là vốn do nhà nước cấp cho doanh nghiệp (Được xác nhận trên cơ sở biên bản giao nhận) gồm vốn cấp ban đầu và vốn cấp bổ sung. Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn này phải nộp ngân sách một tỷ lệ phần trăm nào đó trên vốn cấp gọi là mức thu sử dụng vốn.
Vốn tự bổ sung: Là vốn nội bộ doanh nghiệp bao gồm vốn khấu hao cơ bản, lợi nhuận để lại, vốn cổ phần.
Vốn liên doanh liên kết: Là vốn do doanh nghiệp liên kết với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn vay gồm những khoản vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vay cán bộ công nhân viên, vay nước ngoài, phát hành trái phiếu..
3. Xét theo tính chất sở hữu
Nguồn vốn được chia thành hai loại là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả của doanh nghiệp.
Nợ phải trả: Gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn
Nợ ngắn hạn là các khoản vay tín dụng ngắn hạn, các khoản vay dự trữ phải trả trog vòng một năm. Khoản này thường bao gồm tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này được khai thác tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ kinh doanh một cách bền lâu.
Tín dụng ngân hàng: Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp theo phương thức như cho vay theo từng món, cho vay luân chuyển...
Nợ dài hạn gồm các khoản tín dụng dài hạn, vốn do phát hành trái phiếu công ty...
Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn do các chủ sở hữu đầu tư đóng góp và bổ sung từ kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp được phép sử dụng lâu dài nguồn vốn này trong suốt thời gian hoạt động của mình mà không phải cam kết thanh toán cho các chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu gồm vốn do ngân sách cấp, vốn do thông qua phát hành cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại, thặng dư vốn,...
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu và chi phí vốn của mình, từ đó xác định được cơ cấu và chi phí vốn hợp lý với mức chi phí thấp nhất.
4. Xét theo giác độ luân chuyển của vốn
Vốn gồm hai bộ phận: Vốn cố định và vốn lưu động
Vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lấp đặt các tài sản cố định hữu hình và vô hình. Quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định từ đó ảnh hưởng đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Ngược lại, những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng cũng có ảnh hưởng đến quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Chính vì vậy vốn cố định có những đặc thù sau:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm.
+ Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất cấu thành nên chi phí sản xuất của sản phẩm (thông qua con đường khấu hao).
+ Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển (khấu hao hết).
Xuất phát từ những đặc điểm trên việc quản lý vốn cố định phải luôn được gắn với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là tài sản cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành xong một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vốn cố định chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng vốn kinh doanh và có tính chất quyết định tới năng lực sản xuất của doanh nghiệp, hơn nữa việc sử dụng vốn cố định thường gắn với các quyết định đầu tư dài hạn, thời gian thu hồi vốn chậm nên trong quá trình vận động vốn cố định dễ gặp rủi ro như lạm phát, hao mòn vô hình do sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật. Vì vậy, để sử dụng có hiệu quả vốn cố định doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhằm bảo toàn và phát triển vốn sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước hay đầu tư vào tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên và liên tục. Quá trình này gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện. Từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư, hàng hóa dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng luân chuyển.
Như vậy, so với vốn cố đ