Rau xanh là nhu cầu không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày của con người trên khắp hành tinh.Rau cung cấp cho cơ thể con người nhiều loại Vitamin,muối khoáng, đuương, tinh bột, prôtêin.Đặc biệt khi lương thực và thức ăn giàu chất đạm được đảm bảo thì nhu cầu về số lượng và chất lượng rau càng gia tăng như là một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ.Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau nói riêng đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu vì sự lạm dụng quá mức phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, mặt khácquá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và ô nhiễm môi trường đẫ mang đến nguy cơ lớn làm nhiễm độc môi trường sống cũng như sức khoẻ toàn cộng đồng.
Cải xoong hay còn gọi là xà lách xoong (Tên khoa học là Nasturtium officinale hoặc Nasturtium microphyllum; tên tiếng anh là Watercress) là một loại thực vật thủy sinh hay bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh, có nguồn gốc từ Châu Âu tới Trung Á và là một trong số những loại rau ăn được con người dùng từ rất lâu. Các loài thực vật này là thành viên của họ cải (Brassicaceae), về mặt thực vật học rau cải xoong có họ hàng với rau tần và mù tạc, tất cả chúng đều đáng chú ý vì có mùi vị hăng và cay. Cải xoong chứa một lượng đáng kể sắt, canxi và axít folic cùng với các vitamin A và C, đi kèm theo đó là một số lợi ích khi ăn rau cải xoong, chẳng hạn nó có tác dụng như một chất kích thích nhẹ, một nguồn hóa chất thực vật, có tác dụng chống ôxi hóa, lợi tiểu, long đờm và trợ giúp tiêu hóa. Tại một số khu vực, cải xoong được coi là cỏ dại nhưng tại những khu vực khác thì nó lại được coi là rau ăn hay cây thuốc. Ngoài ra, nó còn có các vitamin B1, B2, E, và phốt pho, iốt và một số khoáng chất vi lượng có tác dụng bảo vệ sức khỏe, chống bệnh tật, nhiễm trùng, chống sự lão hóa, giữ gìn xuân sắc tươi trẻ. Hiện nay rau cải xoong rất được ưa chuộng để làm thực phẩm cải thiện bữa ăn hàng ngày đặc biệt được tiêu thụ rất nhiều cho các nhà hàng, khách sạn vì nó là món ăn ngon miệng, bổ và hợp khẩu vị người Việt Nam. Do vậy người dân đã bắt đầu mở rộng diện tích trồng rau cải xoong, phát triển sản xuất đại trà để phục vụ lợi ích kinh tế nhất là ở các tỉnh phía Bắc nước ta với khí hậu phù hợp cho sự phát triển của rau cải xoong.
65 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2959 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hàm lượng Đồng trong Cải xoong tại tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rau xanh là nhu cầu không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày của con người trên khắp hành tinh.Rau cung cấp cho cơ thể con người nhiều loại Vitamin,muối khoáng, đuương, tinh bột, prôtêin...Đặc biệt khi lương thực và thức ăn giàu chất đạm được đảm bảo thì nhu cầu về số lượng và chất lượng rau càng gia tăng như là một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ.Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau nói riêng đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu vì sự lạm dụng quá mức phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, mặt khácquá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và ô nhiễm môi trường đẫ mang đến nguy cơ lớn làm nhiễm độc môi trường sống cũng như sức khoẻ toàn cộng đồng.
Cải xoong hay còn gọi là xà lách xoong (Tên khoa học là Nasturtium officinale hoặc Nasturtium microphyllum; tên tiếng anh là Watercress) là một loại thực vật thủy sinh hay bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh, có nguồn gốc từ Châu Âu tới Trung Á và là một trong số những loại rau ăn được con người dùng từ rất lâu. Các loài thực vật này là thành viên của họ cải (Brassicaceae), về mặt thực vật học rau cải xoong có họ hàng với rau tần và mù tạc, tất cả chúng đều đáng chú ý vì có mùi vị hăng và cay. Cải xoong chứa một lượng đáng kể sắt, canxi và axít folic cùng với các vitamin A và C, đi kèm theo đó là một số lợi ích khi ăn rau cải xoong, chẳng hạn nó có tác dụng như một chất kích thích nhẹ, một nguồn hóa chất thực vật, có tác dụng chống ôxi hóa, lợi tiểu, long đờm và trợ giúp tiêu hóa. Tại một số khu vực, cải xoong được coi là cỏ dại nhưng tại những khu vực khác thì nó lại được coi là rau ăn hay cây thuốc. Ngoài ra, nó còn có các vitamin B1, B2, E, và phốt pho, iốt và một số khoáng chất vi lượng có tác dụng bảo vệ sức khỏe, chống bệnh tật, nhiễm trùng, chống sự lão hóa, giữ gìn xuân sắc tươi trẻ. Hiện nay rau cải xoong rất được ưa chuộng để làm thực phẩm cải thiện bữa ăn hàng ngày đặc biệt được tiêu thụ rất nhiều cho các nhà hàng, khách sạn vì nó là món ăn ngon miệng, bổ và hợp khẩu vị người Việt Nam. Do vậy người dân đã bắt đầu mở rộng diện tích trồng rau cải xoong, phát triển sản xuất đại trà để phục vụ lợi ích kinh tế nhất là ở các tỉnh phía Bắc nước ta với khí hậu phù hợp cho sự phát triển của rau cải xoong.
Theo một số nghiên cứu trước đây các nhà khoa học đã kết luận cải xoong rất nghiện KLN như cadimium, kẽm, sắt, asen, Đồng khả năng hấp thụ tích lũy KLN của cải xoong là rất cao và khẳ năng sống trong môi trường bị nhiễm KLN cũng rất tốt. Cu là một loại KLN mặc dù kim loại này còn rất mới trong các nghiên cứu khoa học, chính vì vậy KLN Cu cần được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Cụ thể là hàm lượng của Cu trong rau cải xoong như thế nào? Việc nghiên cứu tìm ra những nguyên tố có trong cải xoong là hết sức quan trọng để góp phần tìm ra những chất mới, những nguyên tố mới, nhằm phát hiện được sự có mặt của các nguyên tố có lợi và kể cả các nguyên tố có hại trong rau cải xoong, đáp ứng nhu cầu và phục vụ lợi ích của con người và góp phần bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hàm lượng Đồng trong Cải xoong tại tỉnh Thái Nguyên” nhằm xác định rõ trong cải xoong có mặt của nguyên tố Đồng hay không và đưa ra hàm lượng cụ thể, từ đó đưa ra các đề xuất, ứng dụng cụ thể vào thực tiễn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xác định hàm lượng Cu trong đất, trong nước trồng cải xoong và trong rau cải xoong. Từ đó so sánh với tiêu chuẩn cho phép để đưa ra khuyến cáo với người quản lý, người sản xuất và người tiêu dùng cải xoong nên sử dụng cải xoong như thế nào và sử dụng vào mục đích gì, làm rau ăn hay sử dụng để cải tạo xử lý môi trường bị ô nhiễm Cu.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được thành phần chính của đất và nước trồng cải xoong, đặc biệt là hàm lượng Cu trong đó.
- Xác định được hàm lượng Cu trong cải xoong tại các vùng trồng chính của Thái Nguyên.
- Xác định được hàm lượng Cu trong cải xoong tại các vụ thu hoạch khác nhau.
- Xác định được hàm lượng Cu trong các phần thu hoạch khác nhau của cải xoong.
- xác định được mối quan hệ giữa hàm lượng Cu trong đất, nước trồng cải xoong và trong cải xoong nếu có thể.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Đóng góp về mặt lý luận cho việc giải thích các mối tương quan giữa
hàm lượng các kim loại nặng trong đất, trong nước và hàm lượng của chúng trong phần sử dụng của rau cải xoong tại Thai Nguyên.
- Đề tài giúp sinh viên có cơ hội áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, nâng cao trình độ chuyên môn đồng thời tích lũy kinh nghiệm thưc tế cho bản thân sau này khi ra trường.
- Đề tài là cơ sở cho những kết luận khoa học về hàm lượng Đồng trong rau cải xoong tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng, là cơ sở để nghiên cứu hàm lượng Đồng trong rau cải xoong của các vùng khác nhau hay trên cả nước nói chung. Từ đó, phân tích những tác dụng cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe của con người khi sử dụng rau cải xoong.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa trong việc bảo vệ sức khoẻ của con người, đồng thời cung cấp số liệu về hàm lượng Đồng trong rau cải xoong để:
- Phổ biến, khuyến cáo cho người dân khi sử dụng rau cải xoong, góp phần mở rộng hiểu biết của người dân khi sử dụng cải xoong làm thực phẩm.
- Làm cơ sở cho các cơ quan chức năng đưa ra các biện pháp phát triển cụ thể để sản xuất rau cải xoong sạch trên quy mô rộng.
- Lợi dụng khả năng hấp thụ Đồng của rau cải xoong để cải tạo môi trường đất, môi trường nước bị ô nhiễm Đồng.
- Quá trình thực hiện đề tài, sinh viên được đóng vai trò như một cán bộ tập sự đây là bước đệm giúp sinh viên thu thập kiến thức, chuẩn bị hành trang cho công việc trong tương lai.
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Rau là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày của con người, nó cung cấp phần lớn các khoáng chất, vitamin và các chất dinh dưỡng khác cho con người. Theo nghiên cứu của các nhà dinh dưỡng học thì hàng ngày chúng ta cần 2.300 – 2.500 calo cho năng lượng để hoạt động sống và làm việc. Để có đủ số năng lượng đó thì mỗi ngày cần bổ thêm khoảng 300g rau mỗi ngày. Từ những nhu cầu về rau hằng ngày càng tăng, mỗi người nông dân đã không ngừng nâng cao năng suất rau nhờ áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, tăng cường phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật làm cho năng suất và sản lượng của các loại rau ngày càng tăng mạnh. Bên canh đó, việc sử dụng một lượng lớn và không đúng quy định về phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật đã làm giảm chất lượng các loại rau. Ngoài ra, do quá trình đô thị hóa và chất thải của các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất, nước đặc biệt là ở khu công nghiệp tập trung hay ở các thành phố lớn.
Theo quy định về tiêu chuẩn chất lượng rau sạch của Nộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1993) [4] gồm có 2 tiêu chuẩn chung:
1/ Rau quả sạch đảm bảo phẩm cấp, chất lượng, không dập nát héo úa, hư hại không giấm ủ bằng hóa chất, sạch đất cát bám.
2/ Hàm lượng Nitrat, kim loại nặng, dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và vi sinh vật gây bệnh trong mức cho phép.
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu tới tiêu chuẩn thứ 2, cụ thể là hàm lượng Đồng (Cu) trong rau cả xoong và anh hưởng của Cu đến sức khỏe con người.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Trong thực tế các KLN trong đất hay trong nước luôn luôn diễn ra quá trình trao đổi với các ion bề mặt keo đất, chúng tạo phức với các chất hữu cơ hoặc vô cơ khác và chịu ảnh hưởng của pH môi trường. Đó là các tác nhân quyết định khả năng di động của chúng và dạnh KLN di động đó được cây hấp thu cùng quá trình trao đổi nước và muối khoáng trong cây. Chính do những nguy hiểm vì hàm lượng KLN cao thêm trong dây truyền thực phẩm nên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về sự tích lũy KLN vào cây trồng. Hàm lượng KLN tích lũy trong cây phụ thuộc vào khả năng đông hóa KLN của cây này, phụ thuộc vào pH môi trường, hàm lượng KLN trong đất và nước tưới, phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng cũng như loại cây trồng và từng loại KLN khác nhau. Hàm lượng KLN trong cây còn phụ thuộc vào dạng hợp chất của KLN đó trong đất và nước tưới. (Nguyễn Lan Anh, 2000) [1].
Bùi Cách Tuyến (1996) [18], khi nhiên cứu tồn dư KLN trong nông sản ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh thu được kết quả sau:
- Hệ số tương quan giữa KLN trong nước và rau muống được trồng trong nước là 0,93 với Cu; 0,95 với Zn; 0,73 với Pb; 0,98 với Cr và 0,94 với Cd
- Hệ số tương quan giưuax KLN trong đất và rau cải bông được trồng trên đó là 0,93 với Cu; 0,98 với Zn; 0,12 viuws Pb; 0,98 với Cr và 0,99 với Cd
Phan Thị Dung (2007)[8], khi khảo sát rau trên địa bàn Hà Nội đã đưa ra kết luận: Tần suất phân bố KLN trong số mẫu rau nghiên cứu ở các vùng có hàm lượng vượt quá giói hạn cho phép cụ thể như sau: Zn là 3,75%; Pb là 10%; Cd là 33,75% và Hg là 2,5%, đặc biệt là nguồn rau Thanh Trì do sử dụng nguồn nước thải của thành phố Hà Nội nên có sự tích lũy KLN rất cao, cao nhất là Cd và Hg.
Qua rất nhiều nghiên cứu thì kim loại nặng có trong các sản phẩm rau quả tươi và rau quả đã chế biến tồn dư thông qua nhiều con đường khác nhau. Nguyên nhân thì có rất nhiều nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Qua quá trình canh tác, kim loại nặng xâm nhập vào rau quả từ đất canh tác, nước tưới, và từ các hóa chất sử dụng diệt cỏ, sâu hại.
- Quá trình chế biến, bao gói, bảo quản cũng làm tăng hàm lượng KLN trong sản phẩm rau quả, đặc biệt đối với rau quả có lượng lớn axit hữu cơ, rau quả muối chua. KLN đưa vào thông qua nước rửa, các thiết bị sành sứ tráng men có chứa chì monoaxit cao, cá hộp sát mạ thiếc, hàn thiếc...(Bùi Quang Xuân và cs, 1996) [19].
Nồng độ KLN quá ngưỡng ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và sự phát triển của cây trông cũng như của còn người và động vật. Khi hàm lượng KLN trong cơ thể thiếu hay thừa cũng đều gây ra những bệnh lý nguy hiểm. Hàm lượng KLN đối với cơ thể khác nhau thì cũng khác nhau. Ở người và động vật thì sự tích lũy KLN phụ thuộc vào hàm lượng của chúng có trong thành phần thức ăn, thời gian tiêu thụ cũng như thời gian sinh trưởng và vị trí của loài trong chuỗi thức ăn. Vị trí của một loài trong chuỗi thức ăn ở bậc càng cao thì sự tích lũy KLN càng lớn (Mon Roe T,Morgan, 1991)[23].
2.2. Sơ lược về rau an toàn
2.2.1.Tình hình sản xuất rau và rau an toàn trên thế giới
Hiện nay trên thế giới nhu cầu về rau xanh rất lớn vì rau xanh là nguồn cung cấp chất khoáng và Vitamin cần thiết đối với cơ thể con người. Theo tổ chức Nông – Lương thế giới(FAO) hiện nay trên thế giới có khoảng 15 triệu ha đất sử dụng cho trồng rau, bao gồm hơn 120 chủng loại rau khác nhau với sản lượng lên tới 426.187 triệu tấn. Trong đó những chủng loại rau quan trọng chiếm diện tích lớn nhất là cà chua 2,7 triệu ha, dưa hấu 1,93 triệu ha, hành 1,91 triệu ha, cải bắp 1,7 triệu ha, ớt 1,1 triệu ha... (Bùi Bảo Hoàn và cs, 2000) [10]. Tuy nhiên, trình độ phát triển nghề trồng rau của các nước không giống nhau. Ở các nước phát triển cây rau được chú trọng hơn so với các nước đang phát triển.
Ở Nhật và các nước Tây Âu, rau sản xuất đại trà thường được sản xuất theo quy trình canh tác tiên tiến, hợp lý và được các cơ quan quản lý, thanh tra nông nghiệp kiểm tra hết sức chặt chẽ. Do vậy, chất lượng rau sản xuất đại trà của họ cũng tương đương chất lượng rau sạch của nước ta. Còn rau sạch của các nước phát triển thường là rau sạch tuyệt đối, được sản xuất theo công nghệ thuỷ canh trong nhà kính hoặc cao hơn là sản xuất theo công nghệ sinh học trong nhà kính (gần như không dùng phân hoá học, thuốc hoá học). (Bộ NN & PTNT, 1993) [3].
2.2.2. Tình hình sản xuất rau và rau an toàn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có tiềm năng phát triển ngành rau quả. theo số liệu thống kê diện tích trồng rau cả nước năm 1985 là 224.000 ha, năm 1990 là 241.000 ha, năm 1997 là 377.000 ha, năm 2000 là 445.000 ha. Tổng sản lượng rau xanh 10 năm gần đây tăng từ 3.225.000 tấn lên 6.007.000 tấn. Trung bình cứ mỗi năm tăng 278.200 tấn. Năng suất rau nước ta năm cao nhất (1997) đạt 138,8 tạ/ha bằng 74% so với năng suất trung bình toàn thế giới (178 tạ/ha). Nhưng năng suất rau vẫn bấp bênh năm 2000 năng suất rau của chúng ta là 135 tạ/ha. Sở dĩ năng suất bếp bênh như vậy là do chúng ta chưa có bộ giống tốt chủ yếu là do nông dân tự để giống. Chủng loại rau của chúng ta tuy phong phú nhưng cơ cấu cây trồng lại không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, cơ cấu canh tác của ta là 54% rau ăn lá, 26% rau ăn quả, 5% rau ăn củ, 7% rau ăn bắp thân, hoa, 8% là rau gia vị. Trong khi đó thị hiếu của người tiêu dùng lại chuyển sang rau gia vị, rau ăn thân, ăn quả. Ngoài ra mức độ an toàn của sản phẩm chưa cao, sản phẩm rau và môi trường canh tác bị ô nhiễm ngày một gia tăng. Đó là nguyên nhân làm cho sản phẩm rau của chúng ta chưa hấp dẫn được người tiêu dùng trong nước cũng như người tiêu dùng quốc tế (Đỗ Ngọc Hải, 2003) [9].
Tuy nhiên, việc nghiên cứu và sản xuất rau an toàn ở nước ta đã được triển khai ở một số thành phố như: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Lạt... đã thu được những kết quả nhất định đem lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cho người sản xuất và người tiêu dùng. Nhưng vấn đề về vốn và lưu thông phân phối lại là một trở ngại lớn cho quá trình sản xuất khi chúng được sản xuất trên quy mô lớn.
2.2.3. Tiêu chuẩn chung để sản xuất rau an toàn
2.2.3.1 Tiêu chuẩn về rau an toàn
* Tiêu chuẩn chung
- Rau an toàn là loại rau quả thương phẩm phải đảm bảo phẩm chất, tươi, không bị dập nát, héo úa, sạch đất cát,...
- Rau phải có hàm lượng NO3-, kim loại nặng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, vi sinh vật ở trong mức cho phép của tổ chức y tế thế giới (WHO).
* Ngưỡng hàm lượng NO3-
Lượng phân bón hoá học được sử dụng ở Việt Nam không vào loại cao so với các nước trong khu vực và so với bình quân toàn thế giới. Tuy nhiên ảnh hưởng của phân hoá học nhất là đạm với sự tích luỹ Cutrat trong rau có thể dẫn đến rau được xem là không sạch.
Thực tế kết quả kiểm nghiệm hàm lượng Cutrat trên một số loại rau vào thời điểm sử dụng 1 – 2 ngày sau thu hoạch đều vượt quá chỉ số cho phép là mối quan tâm đối với chúng ta. NO3- đi vào cơ thể ở mức độ bình thường không gây độc nhưng khi hàm lượng vượt tiêu chuẩn cho phép mới nguy hiểm cho cơ thể, gây bệnh “trẻ xanh” đối với trẻ em và gây bệnh ung thư dạ dày đối với người lớn. Hàm lượng Cutrat nếu có trong rau không được vượt mức quy định.
Ở các nước trên thế giới, tất cả các loại rau tươi nhập khẩu đều được kiểm tra chặt chẽ hàm lượng NO3- theo ngưỡng tiêu chuẩn quy định, ở Việt Nam bước đầu cũng đã khởi thảo thực hiện theo ngưỡng này. Ngưỡng hàm lượng NO3- trong một số loại rau quả như sau: (Đơn vị: mg/kg sản phẩm) Dưa hấu: 60; Dưa bở: 90; Ngô rau: 300; Cải bắp: 500; Súp lơ: 300; Dưa chuột: 250; Bầu bí: 400 (Nguồn: QĐ 04/2007 - Bộ Nông nghiệp, 2007) [4].
* Ngưỡng hàm lượng kim loại nặng
Những KLN khi xâm nhập vào cơ thể quá ngưỡng cho phép sẽ gây độc hại cho cơ thể, Al có thể gây bệnh còi xương, Zn và Cd gây nôn mửa, Pb gây thiếu máu, giảm hồng cầu, đau bụng, tăng huyêt áp. Asen chỉ gây hại khi ở dạng hợp chất, quá ngưỡng sẽ gây chứng có chịu, đau bụng, ngứa, đau khớp, suy nhược... Ngoài ra có thể gây tổn thương tới gan, thận hoặc làm tan máu.
Bảng 1: Ngưỡng cho phép một số KLN và độc tố trong rau quả tươi
Đơn vị : mg/kg sản phẩm tươi
Nguyên tố
Hàm lượng
Nguyên tố
Hàm lượng
Asen
Chì
Cadimi
Thủyngân
Đồng
0,2
0,5 – 1
0,02
0,005
5
Kẽm
Bo
Titan
Aflatoxin
Patulin
10
1,8
0,3
0,005
0,05
(Nguồn: QĐ 04/2007 - Bộ Nông nghiệp, 2007) [4].
* Ngưỡng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Các loại hoá chất bảo vệ thực vật thường dùng hiện nay là nhóm Clo hữu cơ và lân hữu cơ. Độc tính của hoá chất trừ sâu lẫn hợp chất rất cao, có thể gây đau đầu, buồn nôn, chuột rút, liệt cơ, viêm thần kinhvà có khả năng tồn lưu kéo dài trong cơ thể.
Các hoá chất trừ sâu Clo hữu cơ cũng rất nguy hiểm, làm rối loạn hệ thần kinh, tiêu hoá, tim mạch, viêm da, gây ung thư, có thể gây tử vong.
Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng trong sản xuất tại Việt Nam, chúng tôi chỉ nêu ngưỡng của một số chủng loại chính thường sử dụng trong sản xuất rau. Ngưỡng cho phép dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và Ngưỡng cho phép Vi sinh vật trong một số loại rau quả tươi được ghi trong quyết định số 04/2007 - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2007.
2.2.3.2. Tiêu chuẩn môi trường để sản xuất rau an toàn
* Tiêu chuẩn đất
Đất trồng rau phải ở địa hình cao, thoát nước, có thành phần cơ giới nhẹ, độ dày tầng đất trên 1 m, tầng canh tác dày trên 20 cm, pHKCL từ 6 – 7, hàm lượng chất hữu cơ khá.
Về vị trí phải xa đường quốc lộ ít nhất 100 – 200 m, xa các khu công nghiệp, không bị ảnh hưởng bởi các nguồn nước thải thành phố.
Đất phải được cày bừa kỹ làm sạch, không có các nguồn lây bệnh, đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh, trong đất không có dư lượng thuốc trừ sâu và KLN.
* Tiêu chuẩn nước
Vùng trồng rau an toàn phải chủ động tưới tiêu, nguồn nước tưới phải sạch, không có mùi hôi thối, tốt nhất là dùng nước giếng khoan đủ tiêu chuẩn, nước ao hồ sạch về tiêu chuẩn vệ sinh.
Tuyệt đối không được sử dụng nguồn nước thải hoặc nguồn nước chảy qua khu công nghiệp và đô thị lớn để tưới cho rau an toàn. Nước rửa rau phải dùng nước giếng khoan đã lọc qua bể lọc hoặc nước đã được qua xử lý.
* Tiêu chuẩn không khí
Vùng rau an toàn phải được bố trí trên khu vực có môi trường không khí trong sạch, cách xa các khu công nghiệp và các trục đường giao thông chính. Các chỉ tiêu về môi trường không khí như lượng bụi, SO2, Pb,... phải đạt tiêu chuẩn cho phép theo TCVN (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2007) [4].
2.2.3.3. Quy trình chung để sản xuất rau an toàn
Mỗi một loại rau quả đều có một quy trình sản xuất riêng tuỳ theo nhu cầu sinh lý của chúng, để đảm bảo tiêu chuẩn rau an toàn cung cấp cho nhu cầu của thị trường cần phải thực hiện đầy đủ các quy định này. Ngoài việc đảm bảo các yếu tố môi trường đất, nước, không khí để sản xuất rau an toàn cần tuân thủ các quy định sau :
- Thời vụ: Phải sản xuất nhiều chủng loại rau an toàn để rải vụ và cung cấp đủ cho nhu cầu người tiêu dùng, tránh tình trạng thiếu rau thời kỳ giáp vụ, thường có các thời vụ sau : Vụ Đông, vụ Xuân, vụ Đông Xuân, vụ Hè, vụ Hè Thu và vụ Thu Đông.
- Giống: Các loại rau ăn lá, hoa, thân, củ, quả, hạt... đều có thể sản xuất theo quy trình rau an toàn. Tuy nhiên, mỗi loại rau thích ứng với từng loại đất và điều kiện sinh thái khác nhau. Các loại hạt giống và cây con đều phải sạch sâu bệnh, giống nhập nội phải qua kiểm dịch thực vật trước khi đưa vào sản xuất. Cần thiết phải xử lý hạt giống trước khi gieo trồng.
- Phân bón: Tuyệt đối không được sử dụng phân tươi hoặc sử dụng nước bẩn để hoà tan phân và pha thuốc trừ sâu. Hạn chế sử dụng phân đạm chứa gốc NO3-, nhất là thời kỳ gần thu hoạch.
Sử dụng phân chuồng ủ hoặc phân rác ủ hoai mục và phân lân hữu cơ vi sinh để bón lót, tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng loại rau mà có chế độ bón lượng phân khác nhau. Chú ý bón cân đối các loại phân vô cơ N.P.K theo quy trình cụ thể của từng loại cây trồng.
Khuyến khích việc sử dụng các loại phân bón qua lá, kích phát tố, điều hoà sinh trưởng nhưng phải đúng liều lượng, đúng kỹ thuật.
- Phòng trừ sâu bệnh: Chú trọng biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) đối với rau an toàn thì việc sử dụng thuốc BVTV là rất hạn chế, đặc biệt là các thuốc hoá học. Ưu tiên dùng thuốc trừ sâu sinh học, thảo mộc hoặc một số thuốc BVTV ít độc hại, có thời gian phân huỷ nhanh ít gây độc hại cho thiên địch và con người.
- Thu hoạch và bảo quản: Thu hoạch đúng thời gian theo quy trình kĩ thuật của từng loại cây để đảm bảo rau có chất lượng tốt nhất, không bị úa, dập nát, bảo quản đúng theo tiêu chuẩn kỹ thuật của rau an toàn.
Ngoài những yêu cầu trên, khu vực trồng rau an toàn còn phải bố trí trên những địa bàn có truyền thống tập quán và kinh nghiệm sản xuất lâu đời, trình độ kỹ thuật thâm canh cao, có đủ cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Vùng trồng rau phải không nằm trong khu vực quy hoạch xây dựng đô thị trong tương lai và phải cách ly với các khu vực sản xuấ