Luận văn Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh phổ biến ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển, ở nước ta bệnh có xu hướng tăng dần. Cùng với bệnh ung thư và tim mạch, ĐTĐ là một trong ba bệnh có số người mắc tăng nhanh nhất. ĐTĐ cũng có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết do gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Bệnh có nguyên nhân nội tiết với biểu hiện là các rối loạn chuyển hóa, điển hình là tăng glucose huyết do thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối hay do không đáp ứng với insulin. Bệnh thường kèm theo các biến chứng cấp gây tử vong hoặc các biến chứng lâu dài như các bệnh lý về tim mạch, mắt, thận, thần kinh [1, 5, 31]. Ở Việt Nam, các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính thường có xu hướng sử dụng thuốc Đông Y hoặc thuốc Y học cổ truyền do chúng có độc tính thấp, rẻ tiền và sẵn có. Sử dụng cây cỏ trong vườn nhà để làm thuốc cũng là truyền thống lâu đời của dân tộc ta, nó đã để lại những kinh nghiệm quí báu trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân

pdf64 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 1 MỞ ĐẦU Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh phổ biến ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển, ở nước ta bệnh có xu hướng tăng dần. Cùng với bệnh ung thư và tim mạch, ĐTĐ là một trong ba bệnh có số người mắc tăng nhanh nhất. ĐTĐ cũng có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết do gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Bệnh có nguyên nhân nội tiết với biểu hiện là các rối loạn chuyển hóa, điển hình là tăng glucose huyết do thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối hay do không đáp ứng với insulin. Bệnh thường kèm theo các biến chứng cấp gây tử vong hoặc các biến chứng lâu dài như các bệnh lý về tim mạch, mắt, thận, thần kinh [1, 5, 31]. Ở Việt Nam, các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính thường có xu hướng sử dụng thuốc Đông Y hoặc thuốc Y học cổ truyền do chúng có độc tính thấp, rẻ tiền và sẵn có. Sử dụng cây cỏ trong vườn nhà để làm thuốc cũng là truyền thống lâu đời của dân tộc ta, nó đã để lại những kinh nghiệm quí báu trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Chuối hột (Musra barjoo Sieb) là loài cây có mặt ở nhiều nơi trên đất nước ta. Nhân dân ta đã theo kinh nghiệm dân gian để chữa một số bệnh như: hắc lào, đau răng, sỏi thận, trĩ, mụn nhọt, tiêu chảy, ĐTĐ, bằng các bộ phận khác nhau của cây. Để góp phần làm sáng tỏ hơn tác dụng điều trị ĐTĐ của cây chuối hột, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2” với mục tiêu: - Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết các phân đoạn quả và củ chuối hột trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2. - Phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất hóa học có trong dịch chiết các bộ phận cây chuối hột. Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 2 Chương 1. TỔNG QUAN 1.1. Bệnh đái tháo đường 1.1.1. Khái niệm Đái tháo đường (Diabetes mellitus) là một bệnh rối loạn chuyển hóa đặc trưng bởi nồng độ glucose máu tăng thường xuyên và mãn tính do tụy sản xuất thiếu insulin (thiếu insulin tuyệt đối) hoặc do giảm tác dụng của insulin (thiếu insulin tương đối) bởi các nguyên nhân khác nhau với cơ chế bệnh sinh phức tạp [1, 5]. Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, rối loạn và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể. Những rối loạn chuyển hóa này có thể gây hôn mê và tử vong trong thời gian ngắn nếu không được điều trị kịp thời. Hậu quả muộn của các rối loạn chuyển hóa này là gây tổn thương các mạch máu nhỏ và mạch máu lớn dẫn đến mù mắt, hoại tử thận, hoại tử chi, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh [5, 30]. 1.1.2. Phân loại và cơ chế bệnh sinh Hơn 2000 năm trước, bệnh ĐTĐ đã được mô tả trong y văn cổ, kể từ đó đến nay đã có rất nhiều cách phân loại bệnh ĐTĐ khác nhau. Trải qua rất nhiều thời kỳ, ĐTĐ được các nhà nghiên cứu phân chia thành rất nhiều loại khác nhau. Đến năm 1980 các chuyên gia nghiên cứu về bệnh ĐTĐ của WHO đã phân loại bệnh ĐTĐ dựa vào các chỉ tiêu lâm sàng, dịch tễ học và các yếu tố di truyền. Sự phân loại này đã được bổ sung và thay đổi chút ít vào năm 1985, phân thành ĐTĐ phụ thuộc insulin (loại bắt buộc phải dùng insulin) và ĐTĐ không dùng thuốc chữa [5, 13, 14]. Cho đến năm 1997, Ủy ban chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại bệnh ĐTĐ của WHO đưa ra đề nghị về cách phân loại bệnh ĐTĐ mới dựa Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 3 trên những tiến bộ về khoa học đó là dựa vào nguyên nhân sinh bệnh và đã được dùng phổ biến đến ngày nay. ĐTĐ được chia thành hai loại như sau [5, 14]: 1.1.2.1. Bệnh đái tháo đường type 1 Bệnh ĐTĐ type 1 còn được gọi là bệnh ĐTĐ phụ thuộc insulin (Insulin-dependent diabete), qua trung gian miễn dịch, hoặc là dạng khởi phát lứa tuổi vị thành niên. Hệ thống miễn dịch của cơ thể đã sinh ra các kháng thể chống lại hoặc phá hủy tế bào β của đảo tụy sản xuất insulin. Khi không có insulin, tế bào sẽ không sử dụng được glucose, do đó glucose trong máu sẽ tăng rất cao và thường dẫn đến những biến chứng lâu dài. Nghiên cứu trên những cặp sinh đôi cùng trứng, tỷ lệ ĐTĐ type 1 ở những cặp này từ 30 – 40%. Điều này chứng tỏ không phải tất cả các trường hợp là di truyền và còn có những yếu tố môi trường trong biểu hiện bệnh. Một số yếu tố môi trường làm thay đổi chức năng của tế bào  như: virus (quai bị, rubella, coxsackie virus B4); một số chất hóa học (thuốc diệt chuột nitrophenylurea) và những chất phá hủy tế bào (hydrogen cyanid có trong tapioca bị hỏng và cây sắn). Gen nhạy cảm với bệnh ĐTĐ ở người chủ yếu nằm trong nhánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6. ĐTĐ type 1 có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường gặp ở trẻ em và thanh niên. Người bị ĐTĐ type 1 bắt buộc phải dùng insulin hằng ngày để điều hòa hàm lượng glucose trong máu. Ngoài ra người bệnh còn phải phối hợp sử dụng thuốc với một chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý giúp ổn định lượng glucose huyết, kéo dài cuộc sống [1, 5, 10, 14, 15]. 1.1.2.2. Bệnh đái tháo đường type 2 Đây là dạng ĐTĐ thường gặp nhất, chiếm khoảng 80-90% số bệnh nhân bị ĐTĐ. Thông thường, với bệnh ĐTĐ type 2, trong cơ thể vẫn còn sản Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 4 xuất insulin, nhưng insulin được sản xuất ra không đủ hoặc các tế bào không thể sử dụng nó. Điều này được gọi là đề kháng insulin. Theo thời gian, đường huyết sẽ tăng cao trong máu. Hiện tượng kháng insulin tập trung nhiều ở gan và các loại mô ngoại vi với nhiều hình thức kháng khác nhau như: giảm khả năng ức chế sản xuất glucose ở gan, giảm khả năng thu nạp glucose ở mô ngoại vi, giảm khả năng sử dụng glucose ở các cơ quan. Do đó, khi xét nghiệm, người ta vẫn thấy sự có mặt của insulin trong máu. Ngoài ra, nồng độ insulin trong máu của một số bệnh nhân ĐTĐ type 2 còn rất cao, nguyên nhân là do ở những bệnh nhân này, tế bào đích không đáp ứng với insulin hoặc đáp ứng ở mức độ thấp, nên nồng độ insulin phải cao hơn mức bình thường mới có thể đưa đến một đáp ứng bình thường [1, 5, 14, 15]. ĐTĐ type 2 có thể diễn biến theo các giai đoạn sau: + Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình thường, nhưng bắt đầu có hiện tượng kháng insulin vì hàm lượng insulin tăng cao hơn bình thường trong máu. + Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng mạnh dần và xuất hiện hiện tượng tăng nồng độ glucose trong máu sau bữa ăn. + Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi nhưng sự bài tiết insulin giảm dần và gây tăng nồng độ glucose huyết lúc đói. Các triệu chứng của bệnh ĐTĐ bắt đầu biểu hiện ra bên ngoài. ĐTĐ type 2 có tính di truyền mạnh, có nghĩa là bệnh có khuynh hướng phát triển theo gia đình. Một số loại gen đã được xác định và một số khác đang trong giai đoạn nghiên cứu được nghi ngờ là nguyên nhân gây ra ĐTĐ type 2. Tuy nhiên trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến bệnh ĐTĐ type 2 đã được đề cập đến, bao gồm như: tăng huyết áp, tăng triglyceride (mỡ) máu, ĐTĐ thai kỳ hoặc sinh con nặng hơn 4kg, chế Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 5 độ ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu, ngồi nhiều, béo phì hoặc thừa cân, chủng tộc, đặc biệt khi có những người thân bị ĐTĐ type 2 hoặc bị ĐTĐ thai kỳ, tuổi tác. Trong đó, béo phì và ít vận động là hai yếu tố nguy cơ được nhắc đến nhiều nhất là có thể làm phát triển bệnh ĐTĐ type 2 [5, 13]. 1.1.2.3. Một số loại ĐTĐ khác Ngoài hai loại ĐTĐ thường gặp nhất là ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type 2 ra thì hiện nay người ta còn phân biệt một số loại bệnh ĐTĐ khác như: ĐTĐ thai kỳ: Đây là dạng ĐTĐ xảy ra ở một số phụ nữ mang thai và sẽ biến mất sau khi sinh. Có thể gây ra các biến chứng cho mẹ và con trong quá trình mang thai. Phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành bệnh ĐTĐ type 2 [13]. Một số type ĐTĐ khác: Một bệnh nhân có thể có đồng thời nhiều đặc điểm của nhiều type khác nhau. Ví dụ, trong ĐTĐ tự miễn âm ỉ (latent autoimmune diabetes in adults (LADA)), còn gọi là ĐTĐ type 1.5 hay ĐTĐ đôi, bệnh nhân có đặc điểm của cả ĐTĐ type 1 và type 2. Phần lớn bệnh nhân LADA vẫn tiết đủ insulin khi mới được chẩn đoán giống như ĐTĐ type 2 nhưng trong vòng vài năm sau bệnh nhân cần insulin để kiểm soát đường huyết. Trong LADA, giống như trong ĐTĐ type 1, tế bào  của tuyến tụy không sản xuất insulin vì hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công và phá hủy tế bào . Các chuyên gia cho rằng ĐTĐ LADA là dạng diễn tiến chậm của ĐTĐ type 1. Nguyên nhân của những type ĐTĐ khác này có thể được gây ra bởi: Khiếm khuyết về gen của tế bào , như là ĐTĐ khởi phát ở người trẻ (MODY). Bệnh tuyến tụy hay tổn thương tuyến tụy, như viêm tụy hay xơ hóa tụy. Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 6 Sản xuất quá nhiều hormone đối kháng insulin do bệnh lý khác như: hormone cortisol trong hội chứng Cushings; những thuốc giảm hoạt động của insulin như là glucocorticoids, hay hóa chất phá hủy tế bào ; nhiễm trùng, như là bệnh sởi hay virus cytomegalo bẩm sinh; những rối loạn tự miễn hiếm, như là hội chứng stiff-man, một bệnh tự miễn của hệ thần kinh trung ương [27]. 1.1.3. Tỉ lệ mắc bệnh Trên thế giới, hàng năm có tới hàng triệu người mắc ĐTĐ. Tỉ lệ phát triển bệnh gia tăng theo sự phát triển của đời sống kinh tế, vì vậy gây ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của kinh tế và cộng đồng. Hiện nay, ĐTĐ đã trở nên phổ biến ở nhiều nước đang trong giai đoạn hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Bệnh ĐTĐ chiếm tỉ lệ 3-7% người trưởng thành ở các nước châu Âu. Gần đây, WHO đã báo động trên toàn thế giới về sự phát triển và mối nguy hại của bệnh này: Năm 1985 thế giới có 30 triệu người mắc ĐTĐ; đến năm 1994 con số này tăng lên 98,9 triệu người. Năm 2003 có khoảng 140 triệu người đang mắc ĐTĐ. Theo ước tính của Viện Nghiên cứu ĐTĐ Quốc tế: năm 2025 có khoảng 300 triệu người mắc ĐTĐ [13, 22, 31]. Ở Việt Nam, theo thống kê của một số bệnh viện ở các thành phố lớn, ĐTĐ là bệnh thường gặp nhất và có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết. Tỉ lệ bệnh nhân điều trị tăng lên từ năm này qua năm khác, ở thành thị cao hơn nông thôn. ĐTĐ type 2 chiếm đa số bệnh nhân và thường gặp ở người cao tuổi (90-95%). ĐTĐ type 1 chiếm tỉ lệ nhỏ và thường gặp ở người trẻ dưới 40 tuổi [13, 22, 31]. Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 7 1.1.4. Các xét nghiệm hóa sinh chẩn đoán bệnh ĐTĐ 1.1.4.1. Glucose huyết Th¸ng 6 n¨m 1997, t¹i héi nghÞ th­êng niªn cña Héi §T§ Mü t¹i Boston ®· c«ng bè tiªu chÝ chÈn ®o¸n míi cña bÖnh §T§. Tiªu chÝ nµy ®­îc WHO c«ng nhËn vµo n¨m 1998. Néi dung cña tiªu chÝ lµ [13]: - MÉu ®­êng huyÕt t­¬ng bÊt kú  200mg/dl kÕt hîp víi c¸c triÖu chøng cña t¨ng ®­êng huyÕt. - §­êng huyÕt t­¬ng lóc ®ãi  126mg/dl (sau 8 giê kh«ng ¨n). - §­êng huyÕt t­¬ng sau 2 giê uèng 75g glucose  200mg/dl. 1.1.4.2. Glucose niệu Ở người bình thường, trong nước tiểu không có đường. Ngưỡng đường thận trung bình là 160-180mg/ml (8,9-10mmol/l). Khi đường huyết tăng cao vượt quá ngưỡng đường thận tức là vượt quá khả năng tái hấp thu glucose của thận, glucose sẽ có trong nước tiểu. Ngưỡng đường thận thay đổi khác nhau đối với từng cá thể. Trong một số trường hợp bệnh lý của thận mặc dù đường huyết bình thường nhưng vẫn có đường trong nước tiểu. Ngược lại, ở người cao tuổi thường có ngưỡng đường thận cao nên ít thấy đường niệu trong khi đường huyết khá cao. Do đó xét nghiệm glucose niệu chỉ có giá trị khi tiến hành đồng thời với xét nghiệm glucose huyết [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.3. Ceton niệu Thể ceton được hình thành trong cơ thể là do tăng phân hủy lipid tạo ra. Thể ceton gồm 3 thành phần: Acetoacetat, Aceton, β-Hydroxybutyrat; các thành phần này được đào thải qua nước tiểu. Ở người bình thường không có ceton trong nước tiểu. Trong trường hợp nhiễm toan chuyển hóa do ĐTĐ, cơ thể đào thải nhiều ceton ra nước tiểu. Đây là dấu hiệu rất có giá trị báo trước cho tình trạng hôn mê nhiễm toan. Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 8 Hiện nay, có thể xác định glucose huyết, glucose niệu hay ceton niệu một cách nhanh chóng, chính xác bằng các dụng cụ như que thử glucose niệu, ceton niệu, máy và kit đo glucose huyết [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.4. Định lượng insulin và C-peptit trong máu Insulin và C-peptit huyết được định lượng bằng phương pháp RIA (Radioimmuno Assay-Định lượng miễn dịch phóng xạ) hoặc ELISA. C-peptit được bài tiết cùng tiền insulin (Proinsulin) từ tế bào β tiểu đảo tụy, đây là yếu tố liên kết giữa nhánh A và B của Proinsulin. C-peptit được bài tiết qua thận ở trạng thái nguyên vẹn, không bị biến đổi. Định lượng C-peptit sẽ đánh giá chính xác khả năng bài tiết insulin của tụy [5, 12, 14, 27]. 1.1.4.5. Các xét nghiệm khác Ngoài các xét nghiệm trên còn có các xét nghiệm khác để chẩn đoán xác định và theo dõi tiến triển bệnh trong điều trị như: HbA1c (Glycosylated hemoglobin), Albumin glycosylated và protein huyết thanh, protein niệu, β2- Microglobulin [5, 12, 14, 27]. 1.1.5. Biến chứng ĐTĐ Biến chứng tim: đây là biến chứng nặng, thường là xơ cứng mạch vành gây cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim. Biến chứng ngoài da: ngứa toàn thân, ngứa sinh dục, mụn nhọt ngoài da, u mỡ vàng, hoại tử mỡ, viêm da thể cứng bì teo. Biến chứng mắt: nhiễm khuẩn mắt, liệt nhãn cầu gây nhìn đôi, viêm đỏ mống mắt, bệnh võng mạc, thiên đầu thống chảy máu, trường hợp nặng có thể mù. Hoại tử do ĐTĐ: đây là biến chứng muộn của bệnh do lâu ngày bị bỏ qua không điều trị. Thường là hoại tử ở chi dưới nhưng cũng có thể ở các tạng như: tim, võng mạc, não, thận. Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 9 Biến chứng thần kinh: đau dây thần kinh tọa, trụ; rối loạn cảm giác sâu, mất phản xạ gân xương; liệt cơ. Biến chứng thận: gây protein niệu, đái máu vi thể, hội chứng thận hư. Biến chứng răng: là một trong các biến chứng sớm, thường là viêm lợi và rụng răng. Biến chứng phổi: áp xe phổi, đây là biến chứng rất dễ gặp. Hôn mê: là biến chứng nặng nhất và thường gây tử vong. Bệnh nhân có thể hôn mê do ĐTĐ như hôn mê do nhiễm toan, ceton, do tăng thẩm thấu hoặc có thể hôn mê do hạ glucose huyết vì quá liều insulin [5, 14, 27]. 1.1.6. Điều trị ĐTĐ 1.1.6.1. Chế độ không dùng thuốc Chế độ ăn uống: việc điều trị ĐTĐ bằng chế độ ăn cần tuân theo nguyên tắc: tổng số calo đưa vào phải cung cấp một năng lượng tương xứng để đạt tới duy trì cân nặng tối ưu cho bệnh nhân và giữ tình trạng sức khỏe tốt nhất. Vận động thể lực: vận động thể lực làm tăng nhạy cảm của insulin do tăng số lượng và chất lượng của receptor insulin của tế bào. Thể dục làm giảm một số biến chứng của bệnh [14, 27, 35]. 1.1.6.2. Chế độ dùng thuốc Ở Việt Nam có hai hướng sử dụng thuốc là: 1.1.6.2.1. Sử dụng thuốc tân dược: Theo ®­êng dïng vµ nguån gèc, c¸c thuèc h¹ glucose m¸u ®­îc chia thµnh hai nhãm chÝnh: - Insulin - Các thuốc hạ glucose huyết đường uống a. Insulin: Insulin ngoại sinh được sử dụng khi tụy không sản xuất đủ insulin để điều hòa chuyển hóa glucid. Insulin dùng trong điều trị ĐTĐ type 1 hoặc Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 10 type 2 khi dùng thuốc uống hạ đường huyết không còn tác dụng. Cơ chế tác dụng của insulin bao gồm [14, 27, 35]: - Tăng cường vận chuyển glucose từ máu vào tế bào, tăng cường oxyhóa glucose tạo năng lượng và chuyển glucose thành glycogen dự trữ. - Tăng cường tổng hợp protein bằng cách chuyển acid amin vào tế bào. - Tăng cường chuyển hóa glucose thành chất béo dự trữ. b. Các thuốc hạ glucose huyết đường uống - Sulphonylurea: (tolbutamid, gliclazid) là thuốc dùng đầu tiên ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 không béo phì. Trong cơ thể, Sulphonylurea được gắn lên thụ thể đặc hiệu nằm ở màng tế bào β tiểu đảo Langerhan và kích thích giải phóng insulin. Khả năng kích thích giải phóng insulin của sulphonylurea trên tế bào β phụ thuộc vào khả năng gắn với các thụ thể. Do đó sulphonylurea chỉ có tác dụng khi tế bào β không bị tổn thương [14, 27, 35]. - Biguanide: (metformin) dùng cho bệnh nhân béo phì. Thuốc làm tăng tác dụng của insulin tại thụ thể và sau thụ thể, tăng sử dụng glucose ở tổ chức ngoại vi, đặc biệt là ở tế bào cơ. Thuốc làm giảm tạo glucose ở gan, giảm hấp thu glucose ở ruột. Tuy nhiên, nhóm này không có tác dụng đối với sự bài tiết insulin ở tụy. Do đó, nên phối hợp với sulphonylurea hoặc với insulin trong điều trị [35]. - Các thuốc ức chế men α-glucosidase: (acarbose, miglitol) là pseudotetrasaccharide có nguồn gốc từ vi khuẩn. Ở niêm mạc ruột non, thuốc ức chế cạnh tranh men tiêu hóa tinh bột α-glucosidase, do đó làm chậm sự hấp thu carbohydrate. - Meglitinide: (repaglinide) thuốc làm giảm glucose huyết bằng cách kích thích tiết insulin từ tế bào β tụy còn hoạt động. - Thiazolidinedione hay Glitazon: (troglitazone, rosiglitazone) trong nhân tế bào của những mô nhạy cảm với insulin (mô mỡ, mô cơ, mô gan) có Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 11 một loại cụ thể là PPARγ (Per-oxisome proliferator-activated receptor gamma). Các glitazon tạo phức hợp với thụ thể PPARγ, qua đó thúc đẩy sự điều hòa sao chép gen giúp tổng hợp một số protein làm tế bào tăng đáp ứng với hoạt tính của insulin. Thuốc có tác dụng làm giảm trực tiếp tình trạng đề kháng insulin, cải thiện chức năng tế bào , làm giảm đáng kể nồng độ insulin nội sinh do đó gây hạ glucose huyết [35]. 1.1.6.2.2. Sử dụng thuốc có nguồn gốc dược liệu - Đái tháo đường theo quan niệm Đông Y: BÖnh §T§ trong y häc cæ truyÒn gäi lµ chøng tiªu kh¸t mµ nguyªn nh©n chñ yÕu lµ do ¨n uèng kh«ng ®iÒu ®é, ¨n nhiÒu c¸c chÊt cay nãng, bÐo, ngät, do lao lùc, do c¨ng th¼ng thÇn kinh t¹o thµnh ho¶ nhiÖt, uÊt nhiÖt lµm phÇn ©m cña c¸c phñ t¹ng: phÕ, vÞ, thËn bÞ hao tæn. H¶i Th­îng L·n ¤ng trong cuèn Y Trung Qu©n KiÖn cã viÕt: chøng bÖnh tiªu kh¸t phÇn nhiÒu do ho¶ lµm tiªu hao ch©n ©m 5 chÊt dÞch bÞ kh« c¹n mµ sinh ra [4]. BÖnh §T§ trong y học cổ truyền chia ra lµm ba møc ®é kh¸c nhau: NÕu bÖnh nh©n thÝch uèng n­íc nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë th­îng tiªu do phÕ ©m h­; nÕu thÝch ¨n nhiÒu bÖnh chñ yÕu ë trung tiªu do vÞ ©m h­ g©y ®ãi vµ gÇy; nÕu bÞ ®i tiÓu nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë phÇn h¹ tiªu do thËn ©m h­ kh«ng tµng tr÷ ®­îc tinh hoa cña ngò cèc, kh«ng chñ ®­îc thuû g©y tiÓu nhiÒu vµ n­íc tiÓu cã ®­êng [4, 7, 8]. Muèn ch÷a bÖnh ph¶i trÞ c¶ gèc vµ ngän: trÞ ngän lµ trÞ chøng kh¸t n­íc, ®ãi, tiÓu nhiÒu. TrÞ gèc lµ trÞ phÕ, tú, thËn lµ nh÷ng c¬ quan cã chøc n¨ng chuyÓn ho¸ vµ ®iÒu tiÕt trong c¬ thÓ. - Các thuốc Đông y sử dụng trong điều trị ĐTĐ: Sử dụng thuốc có nguồn gốc thực vật trong phòng và chữa bệnh là thói quen, kinh nghiệm và truyền thống của người dân Việt Nam và một số nước trên thế giới. Một nghiên cứu về vấn đề sử dụng thảo dược thường xuyên cho Luận văn Thạc sĩ khoa học Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên 12 bệnh nhân ĐTĐ ở Marốc đã cho thấy liệu pháp thực vật là kinh tế nhất và hiệu quả hơn thuốc hiện đại [4]. Có rất nhiều loài cây đã được dùng theo kinh nghiệm dân gian để làm giảm nhẹ triệu chứng cũng như biến chứng của bệnh ĐTĐ: Cải xoong (Nasturium officinale Brassicaceae); Mướp đắng (Mormordica charantia Cucurbitaceae); Bồ công anh (Taraxacum officinale Asteraceae); Dứa (Ananas sativus); Ổi (Psidium guajava); Rau má (Celltela asiatica); Ngò tàu (Eryngium foetidum Apiaceae); Quỉ trâm thảo (Bidens pilosa Asteraceae); Củ cải trắng (Ravanus sativus); Bạch truật (Atractiloides macrocephala Asteraceae); Cam thảo nam (Scoparia ducis Scrophulariaceae); Dừa cạn (Catharanthus roseus Apocynaceae); Hoài sơn (Dioscorea persimilis Dioscoreaceae); Ngọc trúc (Polygotanum officinale Liliaceae), Chuối hột (Musra barjoo Sieb), [7, 8, 9]. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, một số cây đã và đang được nghiên cứu để chứng minh tác
Luận văn liên quan