Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trong quá trình đó cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức cũng không hề ít đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nắm bắt được thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành than đã và đang khẳng định vị thế của một tập đoàn kinh tế vững mạnh. Ngoài việc cung cấp than đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã và đang đặt những bước chân ra thị trường thế giới. Do dự báo nhu cầu than cho nền kinh tế đất nước tăng nhanh, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành than nâng cao sản lượng đến năm 2025 phải cung cấp cho nền kinh tế đất nước 120 triệu tấn than - gấp 3 lần sản lượng hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, ngành than phải đương đầu và khắc phục các vấn đề cơ bản là : điều kiện khai thác than càng ngày càng khó khăn do các khoáng sàng than dễ khai thác đã gần hết; phải tiến hành khai thác than thân thiện với môi trường để giữ gìn môi trường sống chung của loài người.
Do các điều kiện khai thác xuống sâu và ngày càng khó khăn, cung độ vận chuyển tăng, tỷ trọng than hầm lò tăng và giá cả đầu vào, chính sách thuế, chi phí môi trường tăng nên giá thành than năm 2010 tăng 76,5% so với năm 2006 và dự kiến tiếp tục tăng khoảng 5 đến 10% một năm trong các năm tiếp theo. Nếu so với giá thành sản xuất than của các nước sản xuất than lớn như Trong Quốc, Mỹ. thì giá thành sản xuất than của nước ta tương đối cao do năng suất thấp.
Đối với trong nước, chủ yếu cung cấp than cho bốn hộ lớn: điện, xi măng, giấy và đạm, trong đó than điện chiếm phần lớn và tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới để đáp ứng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên giá bán than cho các hộ này còn thấp hơn giá thành (không theo cơ chế thị trường) do Nhà nước khống chế để ổn định đời sống dân sinh và nền kinh tế quốc dân, nhưng hiện nay Nhà nước không còn bù đắp phần chi phí chênh lệch như trước nên tiêu thụ than trong nước không mang lại lợi nhuận cho ngành than.
Do đó, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất, đầu tư thêm thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng và năng suất, thì việc tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất than là yêu cầu có tính tiên quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn TKV hiện nay và trong tương lai.
Vinacomin đã, đang và sẽ đặt mục tiêu quản lý sử dụng tiết kiệm chi sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh lên hàng đầu. Công tác này đó hoàn thiện qua từng giai đoạn, hoàn thiện cả về cơ chế và phương pháp quản trị và đó tạo ra lợi nhuận và tiêm lực tài chính chủ yếu của Tập đoàn. Hiện nay, VINACOMIN áp dụng khoán giá thành theo đơn giá công đoạn tổng hợp, một phương pháp quản lý chi phí, giá thành tiên tiến, khoa học; đơn giá được ban hành niêm yết công khai từng công đoạn sản xuất ; trên cơ sở đơn giá công đoạn và điều kiện sản xuất cụ thể Tập đoàn ban hành giá bán than nội bộ cho từng đơn vị. Theo cơ chế đó, để tăng lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh các công ty thành viên phải có biện pháp quản lý tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản xuất.
Tuy nhiên, do mục tiêu sản lượng, nên các công ty khai thác than thuộc VINACOMIN nhiều lúc chưa thật sự quan tâm đến giảm giá thành sản xuất, còn có tình trạng "sản xuất bằng mọi giá", dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tăng cao, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khai thác than nói riêng và của ngành than nói chung.
Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề "Nghiên cứu một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn – VINACOMIN” là vấn đề có ý nghĩa thiết thực về lý luận, thực tiễn và có tính khả thi cao.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở lý luận cơ bản về quản lý giá thành và kết quả nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần than Cao Sơn - VINACOMIN, đề tài sẽ đưa ra một số giải pháp quản lý chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm mục tiêu giảm giá thành sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp quản trị chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm làm giảm giá thành sản xuất than.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực trạng quản lý chi phí, giảm giá thành sản xuất than tại Công ty cổ phần than Cao Sơn. Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin và số liệu thực tế đã khảo sát tại Công ty than Cao Sơn trong những năm gần đây làm luận cứ để tìm ra các giải pháp quản lý giảm giá thành sản phẩm áp dụng tại Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2010 - 2015
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đưa ra và phân tích các cơ sở lý luận; sử dựng phương pháp thống kê, nghiên cứu so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và phương pháp thực chứng để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng điều tra thực tế, thu thập số liệu bằng các phương pháp khảo sát, thống kê, tổng hợp từ thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN. Kết hợp với phương pháp tham khảo tài liệu hoặc công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các tổ chức tư vấn về các vấn đề quản lý giá thành sản phẩm nói chung và giá thành sản xuất than nói riêng.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần hệ thống hoá các lý luận về quản trị chi phí, quản trị sản xuất nhằm mục tiêu giảm giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp.
Đề tài đánh giá thực chất hiệu quả công tác quản lý giá thành sản xuất than lộ thiên của Tập đoàn VINACOMIN nói chung và của Công ty Cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói riêng. Từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất, hợp lý hoá quá trình sản xuất để giảm giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói chung và của ngành than nói chung.
7. Nội dung đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày thành 3 phần với kết cấu như sau :
Chương 1 . Tổng quan về chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp khai thác khoáng sản
Chương 2. Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3 . Một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn -VINACOMIN.
107 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2650 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần than Cao Sơn VINACOMIN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trong quá trình đó cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức cũng không hề ít đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nắm bắt được thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành than đã và đang khẳng định vị thế của một tập đoàn kinh tế vững mạnh. Ngoài việc cung cấp than đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã và đang đặt những bước chân ra thị trường thế giới. Do dự báo nhu cầu than cho nền kinh tế đất nước tăng nhanh, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành than nâng cao sản lượng đến năm 2025 phải cung cấp cho nền kinh tế đất nước 120 triệu tấn than - gấp 3 lần sản lượng hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, ngành than phải đương đầu và khắc phục các vấn đề cơ bản là : điều kiện khai thác than càng ngày càng khó khăn do các khoáng sàng than dễ khai thác đã gần hết; phải tiến hành khai thác than thân thiện với môi trường để giữ gìn môi trường sống chung của loài người.
Do các điều kiện khai thác xuống sâu và ngày càng khó khăn, cung độ vận chuyển tăng, tỷ trọng than hầm lò tăng và giá cả đầu vào, chính sách thuế, chi phí môi trường tăng nên giá thành than năm 2010 tăng 76,5% so với năm 2006 và dự kiến tiếp tục tăng khoảng 5 đến 10% một năm trong các năm tiếp theo. Nếu so với giá thành sản xuất than của các nước sản xuất than lớn như Trong Quốc, Mỹ... thì giá thành sản xuất than của nước ta tương đối cao do năng suất thấp.
Đối với trong nước, chủ yếu cung cấp than cho bốn hộ lớn: điện, xi măng, giấy và đạm, trong đó than điện chiếm phần lớn và tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới để đáp ứng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên giá bán than cho các hộ này còn thấp hơn giá thành (không theo cơ chế thị trường) do Nhà nước khống chế để ổn định đời sống dân sinh và nền kinh tế quốc dân, nhưng hiện nay Nhà nước không còn bù đắp phần chi phí chênh lệch như trước nên tiêu thụ than trong nước không mang lại lợi nhuận cho ngành than.
Do đó, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất, đầu tư thêm thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng và năng suất, thì việc tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất than là yêu cầu có tính tiên quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn TKV hiện nay và trong tương lai.
Vinacomin đã, đang và sẽ đặt mục tiêu quản lý sử dụng tiết kiệm chi sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh lên hàng đầu. Công tác này đó hoàn thiện qua từng giai đoạn, hoàn thiện cả về cơ chế và phương pháp quản trị và đó tạo ra lợi nhuận và tiêm lực tài chính chủ yếu của Tập đoàn. Hiện nay, VINACOMIN áp dụng khoán giá thành theo đơn giá công đoạn tổng hợp, một phương pháp quản lý chi phí, giá thành tiên tiến, khoa học; đơn giá được ban hành niêm yết công khai từng công đoạn sản xuất ; trên cơ sở đơn giá công đoạn và điều kiện sản xuất cụ thể Tập đoàn ban hành giá bán than nội bộ cho từng đơn vị. Theo cơ chế đó, để tăng lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh các công ty thành viên phải có biện pháp quản lý tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản xuất.
Tuy nhiên, do mục tiêu sản lượng, nên các công ty khai thác than thuộc VINACOMIN nhiều lúc chưa thật sự quan tâm đến giảm giá thành sản xuất, còn có tình trạng "sản xuất bằng mọi giá", dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tăng cao, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khai thác than nói riêng và của ngành than nói chung.
Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề "Nghiên cứu một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn – VINACOMIN” là vấn đề có ý nghĩa thiết thực về lý luận, thực tiễn và có tính khả thi cao.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở lý luận cơ bản về quản lý giá thành và kết quả nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần than Cao Sơn - VINACOMIN, đề tài sẽ đưa ra một số giải pháp quản lý chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm mục tiêu giảm giá thành sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp quản trị chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm làm giảm giá thành sản xuất than.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực trạng quản lý chi phí, giảm giá thành sản xuất than tại Công ty cổ phần than Cao Sơn. Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin và số liệu thực tế đã khảo sát tại Công ty than Cao Sơn trong những năm gần đây làm luận cứ để tìm ra các giải pháp quản lý giảm giá thành sản phẩm áp dụng tại Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2010 - 2015
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đưa ra và phân tích các cơ sở lý luận; sử dựng phương pháp thống kê, nghiên cứu so sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và phương pháp thực chứng để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng điều tra thực tế, thu thập số liệu bằng các phương pháp khảo sát, thống kê, tổng hợp từ thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN. Kết hợp với phương pháp tham khảo tài liệu hoặc công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các tổ chức tư vấn về các vấn đề quản lý giá thành sản phẩm nói chung và giá thành sản xuất than nói riêng.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần hệ thống hoá các lý luận về quản trị chi phí, quản trị sản xuất nhằm mục tiêu giảm giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp.
Đề tài đánh giá thực chất hiệu quả công tác quản lý giá thành sản xuất than lộ thiên của Tập đoàn VINACOMIN nói chung và của Công ty Cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói riêng. Từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất, hợp lý hoá quá trình sản xuất để giảm giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói chung và của ngành than nói chung.
7. Nội dung đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày thành 3 phần với kết cấu như sau :
Chương 1 . Tổng quan về chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp khai thác khoáng sản
Chương 2. Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3 . Một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn -VINACOMIN.
8. Cơ sở tài liệu
Để thực hiện luận văn tác giả đã đi thực tế, thu thập số liệu, tham khảo lý thuyết, văn bản pháp quy có liên quan đến đề tài ở Vinacomin, thư viện quốc gia, giáo trình cao học của Trường Đại học Mỏ Địa chất, nhất là sự giúp đỡ của các thầy cô giáo ở Khoa Kinh tế - QTKD và nhiều trường Đại học khác. Nhân đây, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành sự giúp đỡ của các cơ sở thực tế, trường Đại học Mỏ - Địa chất trong quá trình thu thập số liệu và viết luận văn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất [1; 2; 3]
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, bản chất chi phí sản xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố trên. Sự tham gia của các yếu tố đó vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau và hình thành khoản chi phí tương ứng. Để tạo ra sản phẩm, lao vụ dịch vụ thì các doanh nghiệp phải chi ra các khoản chi phí chủ yếu đó là: hao phi về lao động vật hoá như: chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố định.... hao phí lao động sống cần thiết như: chí phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động, các khoản tính theo lương....Đó chính là chi phí sản xuất kinh doanh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp.
Như vậy chi phí có thể hiểu một cách trìu tượng là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chi phí là những phí tổn về nguồn lực, tài sản cụ thể sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Những nhận thức về chi phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện nhưng tất cả đều thừa nhận một vấn đề chung: chi phí là phí tổn về tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh.
Bản chất của chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
Về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 nhân tố:
Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất tham gia vào một thời kỳ nhất định. Giá cả của các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền công của một đơn vị lao động đã hao phí. Chi phí là một phạm trù chung, khái quát nên khi hoạt động chi tiêu còn đơn giản việc sử dụng phạm trù này không gây ra nhiều rắc rối song khi kinh doanh đã ở qui mô lớn, chu kì kinh doanh kéo dài,... thì việc sử dụng chỉ riêng phạm trù chi phí sẽ trở thành bất tiện và thậm chí rất bất tiện. Vì lẽ đó, phạm trù chi phí đã được phát triển thành ba phạm trù cụ thể hơn là chi tiêu, chi phí tài chính và chi phí kinh doanh.
Chi tiêu (chi ra): là lượng tiền một doanh nghiệp đã trả cho một người, một nhóm người hoặc một tổ chức nào đó. Chi tiêu gắn chặt với các quá trình thanh toán thuần tuý tài chính cho nên chỉ được sử dụng trong kế toán tài chính.
Chi phí tài chính: là sự giảm tài sản ròng, là hao phí của một thời kỳ tính toán được tập hợp ở kế toán tài chính. Chi phí tài chính của một thời kỳ tính toán xác định là chi tiêu gắn liền với kết quả của thời kỳ đó. Chi phí tài chính là chi phí gắn với kế toán tài chính.
Chi phí kinh doanh: là là sự hao phí xét trên phương diện giá trị các vật phẩm và dịch vụ để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như để duy trì năng lực sản xuất cần thiết cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó.
Chi phí kinh doanh có ba đặc trưng bắt buộc: một là, chi phí kinh doanh phải là sự hao phí vật phẩm và dịch vụ gắn với từng thời kì; hai là, sự hao phí vật phẩm và dịch vụ phải gắn liền với kết quả do sự hao phí đó gây ra; ba là, những vật phẩm và dịch vụ hao phí đó phải được đánh giá theo nguyên tắc bảo toàn tài sản về mặt hiện vật. Chi phí kinh doanh là chi phí gắn với kế toán quản trị.
Mặc dù cùng là chi phí nhưng chi phí kinh doanh khác với chi phí tài chính về cả nội dung và độ lớn. Về bản chất, có nội dung chi phí mà có sự trùng lặp giữa chi phí kinh doanh và chi phí tài chính, cũng có các nội dung chi phí mà chi phí kinh doanh khác biệt so với chi phí tài chính và cũng có nội dung chi phí mà chi phí tài chinh khác biệt so với chi phí kinh doanh.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Khi xét về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí .. của chi phí trong quá trình kinh doanh, chi phí có rất nhiều loại khác nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí, cần phải phân loại chi phí hay sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm theo đặc trưng nhất định. Trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên, lựa chọn tiêu thức phân loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công tác quản lý. Sau đây, ta xem xét một số cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu:
a) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí (theo tính chất, nội dung kinh tế của chi phí
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về thực chất chủ yếu có ba yếu tố chi phí là chi phí về sức lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Theo cách' phân loại này thì chi phí được chia làm bảy yếu tố:
Yếu tố nguyên vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, . . . sử dụng vào sản xuất - kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất - kinh doanh
Yếu tố tiền lương và các khoản có tính chất lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho người lao động Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: tính theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho người lao động
Yếu tô khâu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào việc sản xuất kinh doanh trong kỳ. Cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của chi phí mà không xét đến công dụng, địa điểm phát sinh của chi phí. Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết tỷ trọng từng yếu tố chi phí qua đó đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất, cung cấp tài liệu cho việc lập dự toán chi phí sản xuất. Tuy nhiên cách phân loại này có nhược điểm là không tính được giá thành cho từng đơn vị sản phẩm do không phân biệt được chi phí theo mục đích và công dụng.
b) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo chức năng hoạt động
Cách phân loại này căn cứ vào chức năng hoạt động mà chi phí phát sinh để phân loại. Toàn bộ chi phí được chia thành 2 loại là chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hoặc dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chi phí sản xuất được chia thành 3 loại:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị của nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,.. dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích theo lương cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đ/tấn của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh tại phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí ngoài sản xuất: là các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm và quản lý chung toàn doanh nghiệp, bao gồm:
Chi phí bán hàng: là toàn bộ những chi phí phát sinh cần thiết để tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm; bao gồm các khoản chi phí như vận chuyển, bốc vác, bao bì, lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, khấu hao TSCĐ và những chi phí liên quan đến dự trữ, bảo quản sản phẩm, hàng hoá, . .
Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ những chi phí chi ra cho việc tổ chức và quản lý trong toàn doanh nghiệp. Đó là những chi phí hành chính, kế toán, quản lý chung . .
Cách phân loại này giúp thấy rõ được chức năng của từng khoản mục chi phí mà không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào và giúp cho nhà quản trị dự toán được các khoản mục trọng yếu trong chi phí sản xuất sản phẩm, cung cấp số liệu cho việc xây dựng kế hoạch giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục chi phí, từ đó xác định nguyên nhân, đề ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì các chi phí này bảo gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí sản phẩm được xem là gắn liền với từng đơn vị sản phẩm, hàng hoá khi chúng được sản xuất ra hoặc được mua vào, sản phẩm, hàng hoá tồn kho và khi sản phẩm, hàng hoá được tiêu thụ thì mới trở thành phí tổn để xác định kết quả kinh doanh.
Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Đối với các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hoặc trong kỳ không có hoặc có ít doanh thu thì chúng được tính thành phí tổn của kỳ sau để xác định kết quả kinh doanh.
d) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí
Cách phân loại này căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng chịu chi phí để phân loại, chi phí được chia thành 2 loại:
Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến đối tượng chịu chi phí và được hạch toán vào đối tượng có liên quan. Thông thường chi phí trực tiếp là các chi phí đơn nhất cấu tạo bởi một yếu tố như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương,..
Chi phí gián tiếp: là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí, do đó nó được phân bổ vào các đối tượng có liên quan theo các tiêu thức nhất định. Chi phí gián tiếp thường là những chi phí tổng hợp của nhiều chi phí đơn nhất.
e) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách ứng xử của chi phí
Với các cách phân loại nêu trên, các chi phí phát sinh được xem là các thông
tin quá khứ, độ lớn của nó chỉ có thể được xác định sau khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành. Chính vì vậy, các cách phân loại chi phí trên chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị trong việc xác định các xu hướng biến động và mối quan hệ giữa chi phí phát sinh, sản lượng thực hiện và lợi nhuận thu được; lập kế hoạch và lựa chọn các phương án kinh doanh hiệu quả nhất. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí thường được áp dụng trong kế toán quản trị, cách phân loại này sẽ khắc phục những hạn chế kể trên. Nguyên tắc phân loại dựa trên mối quan hệ của chi phí phát sinh với mức độ, quy mô của hoạt động làm phát sinh chi phí ấy. Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành biến phí (chi phí biến đổi), định phí (chi phí cố định) và chi phí hỗn hợp.
Biến phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó có quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động. Tuỳ thuộc vào đặc điểm và nội dung cụ thể của hoạt động mà người ta lựa chọn tiêu thức phù hợp để xác định mức độ hay quy mô của hoạt động tương ứng. Biến phí có đặc điểm là tổng biến phí tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động còn biến phí đơn vị thì mang tính ổn định, không biến động khi mức độ hoạt động thay đổi. Biến phí thường bao gồm các khoản mục chi phí trực tiếp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như: chi phí nguyên, nhiên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp...
Định phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó không đổi về tổng số khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp. Phạm vi phù hợp là phạm vi giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức độ hoạt động tối đa mà đơn vị dự tính thực hiện. Định phí có đặc điểm là tổng định phí ổn định, không biến động khi mức độ hoạt động thay đổi còn định phí đơn vị tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Định phí thường bao gồm các khoản chi phí gián tiếp như các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh...
Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và yếu tố định phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa thườ