Trải qua một thời kỳ dài của nền kinh tế nông nghiệp với cơ chế bao cấp,
nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thủy lợi ở nước ta là cấp nước tưới tiêu
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, trong điều kiện mới của nền kinh tế
thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống công trình thủy lợi
đã có những thay đổi đa dạng và mang tính tổng hợp hơn. Nhiều hệ thống
thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu hiện đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm
thêm nhiệm vụ mới như: cấp nước thô (nước lấy từ nguồn nước sông tự
nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch) phục vụ cho các nhà máy nước sạch
phục vụ công nghiệp và dân sinh; cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, du lịch,
giao thông thuỷ,. Do việc phải đảm trách thêm những nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh mới này, công tác quản lý, vận hành các công trình trở nên phức
tạp hơn, và chi phí sản xuất cũng tăng cao hơn so với khi hệ thống chỉ có một
nhiệm vụ phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
Do công tác định giá sản phẩm và hoạt động dịch vụ chưa được quan tâm
thích đánh, hay nói chính xác hơn, do chưa có hệ thống định mức kinh tế kỹ
thuật, định mức chi phí trong hoạt động sản xuất, nên hiện nay vấn đề cân đối
tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống thuỷ lợi gặp
rất nhiều khó khăn và luôn rơi vào tình trạng xung đột trong các quan hệ hợp
đồng kinh tế mà không có căn cứ phân định đúng sai. Thực tế này đã dẫn đến
tình trạng, nguồn kinh phí thu được của các hệ thống công trình thủy lợi từ
cấp nước nông nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi không đủ để duy tu
bảo dưỡng và vận hành các công trình của hệ thống cấp nước và các hệ thống
thủy lợi dẫn nước tạo nguồn. Do thiếu kinh phí trong hoạt động vận hành và
duy tu cải tạo, nên các hệ thống thuỷ lợi hiện có ngày một xuống cấp, đời
sống cán bộ công nhân viên của các loại hình doanh nghiệp này ngày càng
khó khăn. Để duy trì hoạt động cầm chừng của các hệ thống này, hàng năm2
nhà nước phải cấp bù một khoản ngân sách không nhỏ. Nếu không có những
định hướng đúng trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, thì mãi mãi
hoạt động của các hệ thống thuỷ lợi vẫn ở trong vòng luẩn quẩn.
Đã đến lúc cần phải vận dụng các biện pháp pháp luật, hành chính, kinh tế,
kỹ thuật và tuyên truyền, giáo dục,. để giải quyết những mâu thuẫn giữa
cung và cầu và tình trạng tài nguyên nước không đủ so với nhu cầu dùng
nước tăng trưởng tương đối nhanh, giải quyết mâu thuẫn giữa tình trạng môi
trường bị xấu đi, trong khi khả năng xử lí và khắc phục không đầy đủ, giải
quyết mâu thuẫn giữa tình trạng giá nước vẫn còn thu tương đối thấp trong
khi phải đầu tư xây dựng công trình là lắp đặt các trang thiết bị quản lí vận
hành công trình nước với chất lượng cao và kinh phí đầu tư lớn.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn “Nghiên cứu
phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình
thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp”. Việc nghiên cứu phương pháp
xây dựng định mức chi phí nói chung, định mức chi phí cấp nước thô từ hệ
thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp nói riêng, là một
trong những công tác rất cần thiết và cấp bách cần thiết phải được triển khai
ngay. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng để các đơn vị có
thể chủ động tổ chức xây dựng, rà soát điều chỉnh định mức cho đơn vị mình,
đồng thời giúp các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở địa phương kiểm tra,
thẩm định kết quả tính toán và quyết định ban hành áp dụng các chỉ tiêu định
mức chi phí trong hoạt động quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi
114 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua một thời kỳ dài của nền kinh tế nông nghiệp với cơ chế bao cấp,
nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thủy lợi ở nước ta là cấp nước tưới tiêu
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, trong điều kiện mới của nền kinh tế
thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống công trình thủy lợi
đã có những thay đổi đa dạng và mang tính tổng hợp hơn. Nhiều hệ thống
thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu hiện đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm
thêm nhiệm vụ mới như: cấp nước thô (nước lấy từ nguồn nước sông tự
nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch) phục vụ cho các nhà máy nước sạch
phục vụ công nghiệp và dân sinh; cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, du lịch,
giao thông thuỷ,.... Do việc phải đảm trách thêm những nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh mới này, công tác quản lý, vận hành các công trình trở nên phức
tạp hơn, và chi phí sản xuất cũng tăng cao hơn so với khi hệ thống chỉ có một
nhiệm vụ phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
Do công tác định giá sản phẩm và hoạt động dịch vụ chưa được quan tâm
thích đánh, hay nói chính xác hơn, do chưa có hệ thống định mức kinh tế kỹ
thuật, định mức chi phí trong hoạt động sản xuất, nên hiện nay vấn đề cân đối
tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống thuỷ lợi gặp
rất nhiều khó khăn và luôn rơi vào tình trạng xung đột trong các quan hệ hợp
đồng kinh tế mà không có căn cứ phân định đúng sai. Thực tế này đã dẫn đến
tình trạng, nguồn kinh phí thu được của các hệ thống công trình thủy lợi từ
cấp nước nông nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi không đủ để duy tu
bảo dưỡng và vận hành các công trình của hệ thống cấp nước và các hệ thống
thủy lợi dẫn nước tạo nguồn. Do thiếu kinh phí trong hoạt động vận hành và
duy tu cải tạo, nên các hệ thống thuỷ lợi hiện có ngày một xuống cấp, đời
sống cán bộ công nhân viên của các loại hình doanh nghiệp này ngày càng
khó khăn. Để duy trì hoạt động cầm chừng của các hệ thống này, hàng năm
2
nhà nước phải cấp bù một khoản ngân sách không nhỏ. Nếu không có những
định hướng đúng trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, thì mãi mãi
hoạt động của các hệ thống thuỷ lợi vẫn ở trong vòng luẩn quẩn.
Đã đến lúc cần phải vận dụng các biện pháp pháp luật, hành chính, kinh tế,
kỹ thuật và tuyên truyền, giáo dục,... để giải quyết những mâu thuẫn giữa
cung và cầu và tình trạng tài nguyên nước không đủ so với nhu cầu dùng
nước tăng trưởng tương đối nhanh, giải quyết mâu thuẫn giữa tình trạng môi
trường bị xấu đi, trong khi khả năng xử lí và khắc phục không đầy đủ, giải
quyết mâu thuẫn giữa tình trạng giá nước vẫn còn thu tương đối thấp trong
khi phải đầu tư xây dựng công trình là lắp đặt các trang thiết bị quản lí vận
hành công trình nước với chất lượng cao và kinh phí đầu tư lớn.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn “Nghiên cứu
phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình
thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp”. Việc nghiên cứu phương pháp
xây dựng định mức chi phí nói chung, định mức chi phí cấp nước thô từ hệ
thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp nói riêng, là một
trong những công tác rất cần thiết và cấp bách cần thiết phải được triển khai
ngay. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng để các đơn vị có
thể chủ động tổ chức xây dựng, rà soát điều chỉnh định mức cho đơn vị mình,
đồng thời giúp các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở địa phương kiểm tra,
thẩm định kết quả tính toán và quyết định ban hành áp dụng các chỉ tiêu định
mức chi phí trong hoạt động quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra phương pháp xây dựng định mức
chi phí cấp nước thô phù hợp với thực trạng tổ chức sản xuất, điều kiện trang
bị kỹ thuật và trình độ quản lý của doanh nghiệp quản lý khai thác công trình
thuỷ lợi trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội của một hệ thống công trình cụ thể.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp xây dựng định mức kinh
tế kỹ thuật nói chung, phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô
ở các hệ thống công trình thuỷ lợi nói riêng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động quản lý vận hành, sản xuất
kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho các đối tượng hưởng lợi từ hệ thống công
trình thuỷ lợi. Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động và chi phí phát sinh
do hoạt động cấp nước thô từ hệ thống công trình thuỷ lợi cho các hoạt động
sản xuất nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nội dung, nhiệm vụ của đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp thống kế, kinh
nghiệm; Phương pháp so sánh; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phân
tích theo mô hình toán; Phương pháp tổng hợp; và một số phương pháp kết
hợp khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Trên cơ sở tổng quan các cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nghiên
cứu và xây dựng định mức, luận văn đã đề xuất và lựa chọn được phương
pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô phù hợp, có cơ sở khoa học
trong quản lý khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nội dung tham khảo hữu ích cho
những nghiên cứu, học tập và giảng dạy về xây dựng định mức.
b. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
4
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được xem như một hướng dẫn mẫu,
một gợi ý quan trọng cho hoạt động thực tiễn về xây dựng định mức kinh tế
kỹ thuật và tổ chức quản lý sản xuất ở các hệ thống công trình thuỷ lợi.
6. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu theo nhiệm vụ đã đề ra, nội dung nghiên
cứu của đề tài tập trung vào các nội dung chính như sau:
- Nghiên cứu tổng quan về công tác xây dựng và áp dụng định mức chi phí
cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công
nghiệp. Tổng kết các kết quả định mức chi phí thực tế tại một số vùng, miền.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình và phương pháp lập một số định mức chi phí
chủ yếu (gồm một số loại định mức chủ yếu: Chi phí tiền lương trên một đơn
vị sản phẩm; Chi phí các khoản theo lương; Chi phí nạo vét kênh mương; chi
phí dụng cụ, vật tư duy trì vệ sinh kênh mương; Chi phí vật tư, nghiên nhiên
liệu bảo dưỡng thiết bị vận hành công trình; Chi phí sửa chữa thường xuyên
tài sản cố định; Chi phí quản lý doanh nghiệp; Chi phí khấu hao tài sản cố
định; Chi phí tri trả tạo nguồn; Một số chi phí khác).
- Áp dụng kết quả nghiên cứu phương pháp xây dựng định mức để tính toán
chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và
công nghiệp của một hệ thống thuỷ lợi cụ thể.
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỊNH MỨC
KINH TẾ KỸ THUẬT TRONG QUẢN LÝ KHAI THÁC CÔNG TRÌNH
THUỶ LỢI
1.1. Một số khái niệm về định mức
Định mức là một trong những công cụ quan trọng và cần thiết trong các
hoạt động tổ chức và quản lý mà chính phủ của các quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam công tác lập và áp dụng nhiều loại định mức khác nhau được Chính
phủ công bố hoặc hướng dẫn xây dựng, áp dụng, nhằm kiểm soát các hoạt
động kinh tế của đất nước. Về mặt xây dựng và quản lý, định mức được chia
thành các loại sau đây:
a. Định mức Nhà nước áp dụng chung cho các ngành, các cấp, được quy định
cho những sản phẩm (công việc) chủ yếu, do Nhà nước thống nhất quản lý, có
liên quan đến các cân đối chung của nền kinh tế quốc dân;
b. Định mức áp dụng trong từng ngành, được quy định cho những sản phẩm
(công việc) khi chưa có định mức Nhà nước, khi cần cụ thể hóa định mức Nhà
nước,hoặc cho những sản phẩm (công việc) của ngành được phân cấp quản
lý;
c. Định mức tỉnh,thành phố và đặc khu trực thuộc trung ương áp dụng trong
phạm vi tỉnh, được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành; khi cần cụ thể hóa định mức Nhà nước,
định mức ngành; hoặc cho những sản phẩm (công việc) của tỉnh, được phân
cấp quản lý;
d. Định mức huyện, quận và thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh áp dụng trong
phạm vi huyện được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành, định mức tỉnh, thành phố; khi cần cụ
thể hoá định mức của cấp trên, hoặc cho những sản phẩm (công việc) của
huyện được phân cấp quản lý;
6
e. Định mức đơn vị cơ sở áp dụng trong từng đơn vị cơ sở được quy định cho
những sản phẩm (công việc ) khi chưa có định mức Nhà nước, định mức
ngành, định mức địa phương; khi cần cụ thể hoá định mức của cấp trên; hoặc
cho những sản phẩm (công việc) của đơn vị cơ sở sản xuất được phân cấp
quản lý.
Mức theo tiếng la tinh là norm, trong thực tiễn mức còn có các từ tương
đương như tiêu chuẩn, chuẩn mực, hạn ngạch, v.v Mức có mặt trong nhiều
lĩnh vực của đời sống như kinh tế, chính trị, pháp luật, tôn giáo, phong tục,
tập quán, đạo đức, thẩm mỹ,... ví dụ, trong thực tế gặp các câu nói: “ Nhân
viên A hoàn thành vượt mức công tác đặt ra trong ngày”; “Công nhân B hoàn
thành vượt mức sản lượng”; “ Giám đốc C cư xử với mọi người rất đúng
mức”; “ Anh D đã được hạ mức kỷ luật từ buộc thôi việc xuống cảnh cáo”;
v.v
Như vậy, mức không nhất thiết là phạm trù định lượng được mà có thể là
phạm trù định tính. Mức xuất hiện trong hoạt động sản xuất và trao đổi hàng
hóa của con người được gọi là mức kinh tế - kỹ thuật, theo cách gọi thông
dụng hiện nay là định mức kinh tế kỹ thuật
Trong thực tế xây dựng và áp dụng định mức, chúng ta thường gặp các
khái niệm định mức sau:
1.1.1. Định mức lao động
Trong lĩnh vực hoạt động lao động sản xuất của con người, muốn cho quá
trình sản xuất tập thể của họ đạt đươc kết quả cao, thì ta phải biết kết hợp một
cách tốt nhất 3 yếu tố cơ bản của sản xuất, cũng như biết tổ chức và định mức
tốt các quá trình lao động.
Lịch sử phát triển loài người đã chứng minh rằng, khi trình độ sản xuất
ngày càng phát triển, thì công tác tổ chức và định mức lao động càng cần phải
dựa trên cơ sở khoa học chặt chẽ hơn và càng cần được quan tâm ở mức cao
7
hơn. Ở thời kỳ lao động của con người còn là thủ công và mức độ cơ giới hoá,
xã hội hoá lao động chưa cao, thì chỉ cần dựa vào kinh nghiệm của một số
người đã có thể tổ chức lao động tốt, khi lao động của con người dần được
máy móc thay thế, quy mô sản xuất ngày càng lớn, mức độ xã hội hoá lao
động ngày càng cao thì tổ chức và định mức lao động trở nên vô cùng quan
trọng và trở thành một bộ phận không thể tách rời của tổ chức sản xuất.
Xây dựng định mức lao động trong doanh nghiệp là lĩnh vực hoạt động
thực tiễn về xây dựng, và thực hiện các mức lao động trong tất cả các dạng
hoạt động lao động. Căn cứ vào phương pháp xây dựng mức chung ta có thể
phân định mức lao động thành hai nhóm chính là :
Những định mức lao động được xây dựng trên cơ sở những phương pháp
khoa học như chụp ảnh, bấm thời gian làm việc, dùng toán học để tính toán
chính xác thời gian lao động hao phí. Định mức lao động được xây dựng có
tính toán và đề cập tới điều kiện tổ chức kỹ thuật trình độ tổ chức lao động và
các yếu tố về điều kiện lao động, tâm sinh lý của con người. Như vậy là do
yêu cầu về tính chính xác cao, nên để xây dựng được loại mức này, phải đòi
hỏi thời gian, công sức và phương tiện lớn, khối lượng tính toán nhiều, chính
vì thế, nó được xây dựng và áp dụng trong các nhà máy công nghiệp, những
công việc phổ biến ổn định, hao phí thời gian nhỏ.
Nhóm mức thứ hai là những định mức thống kê kinh nghiệm nó được xây
dựng trên cơ sở nhứng tài liệu thông kê, những mức điển hình tiên tiến, và
kinh nghiệm của cán bộ xây dựng mức. Về mặt chất lượng, những định mức
này có trình độ chính xác chưa cao, nhưng trong thực tế nó lại được áp dụng
khá phổ biến cho những công việc mức ổn định thấp chu kỳ dài nơi làm việt
thường xuyên thay đổi. Những doanh nghiệp mà trình độ kỹ thuật, điều kiện
sản xuất luôn biến động.
8
Trong thực tế chúng ta thường xây dựng và áp dụng các loại định mức sau
đây: Mức thời gian; Mức sản lượng; Mức số lượng người làm việc; Mức quản
lý; Mức phục vụ.
Tuỳ thuộc vào từng công việc trong thực tế của các đơn vị sản xuất mà
chúng ta chọn phương pháp và mức lao động thích hợp để áp dụng, với mỗi xí
nghiệp do chức năng đảm nhận khác nhau trong quá trình sản xuất của các
dạng, loại công việc mà có thể có nhiều loại mức lao động khác nhau.
Như vậy thông qua những khái niệm trên chúng ta thấy rằng định mức lao
động chính là thước đo chất lượng và số lượng lao động ứng với một điều
kiện tổ chức sản xuất của một quá trình sản xuất cụ thể.
Nhờ có mức mà chúng ta có thể xác định được giá thành sản phẩm, xác
định được kế hoạch về lao động tiền lương của xí nghiệp tổ chức lao động và
sản xuất một cách hợp lý và khoa học. Việc áp dụng mức lao động vào sản
xuất sẽ khuyến khích người lao động phấn đấu một cách tự giác để không
ngừng nâng cao trình độ tay nghề phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật quý
trọng và tiết kiệm thời gian lao động và những yếu tố vật chất khác của sản
xuất đấy là một tiền đề hết sức quan trọng để nâng cao năng suất lao động và
hạ giá thành sản phẩm. Đây chính là một vấn đề hết sức quan trọng trong
quản lý sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp.
Thực trạng quản lý sản xuất quản lý lao động ở các doanh nghiệp khai thác
công trình thuỷ lợi nói chung còn lỏng lẻo và còn nhiều khiếm khuyết.
Nguyên nhân chính của những tồn tại này lại chính là do các doanh nghiệp
chưa làm tốt công tác tổ chức và định mức lao động những tập mức được quy
định thống nhất chung của nhà nước ban hành đã quá lạc hậu so với yêu cầu
và những biến đổi của thực tiễn sản xuất ở các xí nghiệp hơn nữa khi áp dụng
những mức đó vào sản xuất gây nhiều khó khăn cho công tác định mức.
Nguyên nhân chính là do những mức đó chưa đề cập hết đến thực trạng tổ
chức kỹ thuật và những đặc điểm riêng biệt của từng doanh nghiệp.
9
Một vấn đề khác cũng cần phải đề cập tới khi phân tích những tồn tại trên
đó là công tác xây dựng và áp dụng mức vào sản xuất ở ta từ trước tới nay,
nhất là ở các doanh nghiệp thuỷ nông chưa được quan tâm một các đúng mức
đó chính là kết quả của một thời gian dài hoạt động trong cơ chế hành chính
quan liêu bao cấp, hạch toán lỗ lãi trong sản xuất của các đơn vị mang tính
hình thức, các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi còn trông chờ ỷ lại
cấp trên.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã mở ra cho các xí nghiệp hướng làm ăn
mới là mở rộng quyền chủ động trong sản xuất và kinh doanh của các xí
nghiệp. Các xí nghiệp phải chuyển sang hạch toán kinh tế. Với cách làm ăn
mới này chúng ta tin rằng năng lực của mỗi xí nghiệp sẽ được thể hiện rõ
hơn,đầy đủ hơn. tuy vậy không thể ngay một lúc chúng ta có thể áp dụng hạch
toán kinh tế và các xí nghiệp , mà công việc này đòi hỏi phải có một quá trình
và những điều kiện tiền đề nhất định.
Một trong những công tác cần phải tiến hành trước tiên là chúng ta phải
xây dựng được hệ thống các mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở xác định một
loạt các yếu tố khác như giá thành sản phẩm, kế hoạch lao động vật tư, tính
vốn và làm cơ sở để tiến hành hạch toán nội bộ, xây dựng chế độ khoán, xác
định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý xí nghiệp, hạch định biên xã hội của các
bộ phận sản xuất của xí nghiệp.
1.1.2. Định mức kinh tế - kỹ thuật
Định mức kinh tế - kỹ thuật là đại lượng biểu thị trực tiếp dùng để tính
toán lượng tiêu hao cần thiết lớn nhất của một loại nguồn lực nào đó để sản
xuất một đơn vị sản phẩm, bảo đảm những yêu cầu nhất định về chất lượng
và phù hợp với các nhân tố ảnh hưởng khách quan về địa chất tự nhiên, kỹ
thuật, công nghệ và tổ chức quản lý.
Với định nghĩa trên, mức kinh tế - kỹ thuật luôn luôn là một chỉ tiêu (một
phạm trù định lượng), tức là được biểu thị bằng những con số cụ thể. Định
10
mức kinh tế - kỹ thuật có nhiều loại thường được chia ra các nhóm căn cứ vào
tính chất nguồn lực hay lĩnh vực áp dụng như :
- Các định mức tiêu hao vật tư (các mức vật tư);
- Các định mức hao phí lao động (các mức lao động);
- Các mức khấu hao tài sản cố định và sử dụng năng lực sản xuất;
- Các mức đầu tư xây dựng cơ bản;
- Các mức tài chính; v.v
Theo Nghị định số 201/CP của Hội đồng Chính phủ, ngày 26 tháng 5 năm
1981 về Quản lý định mức kinh tế - kỹ thuật thì: Định mức kinh tế - kỹ thuật
(Economic - Technical Norm) là lượng lao động sống và lao động quá khứ
biểu hiện bằng thời gian lao động, bằng giá trị hoặc hiện vật được phép sử
dụng để sản xuất một đơn vị sản phẩm hoặc thực hiện một khối lượng công
việc theo tiêu chuẩn, chất lượng quy định và theo quy trình công nghệ hợp lý,
trong những điều kiện trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức sản xuất và trình độ
quản lý cụ thể. Lượng lao động sống và lao động vật hoá đối với các quá trình
hoạt động sản quản lý vận hành của các hệ thống công trình thuỷ lợi được
hiểu là các mức hao phí cần thiết về lao động, vật tư, máy móc thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu để hoàn thành nhiệm vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp,
dân sinh kinh tế và các dịch vụ theo kế hoạch được giao.
1.1.3. Định mức chi phí
Định mức chi phí là chi phí dự tính bằng tiền tối đa của các hao phí các
yếu tố công cụ lao động, đối tượng lao động và sức lao động để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ cho khách hàng theo kế
hoạch, trong một điệu kiện tổ chức sản xuất kinh doanh cụ thể.
Như vậy có thể hiểu, định mức chi phí là cơ sở để doanh nghiệp lập dự
toán chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy móc thiết bị và
tài sản cố định cho các hoạt động sản xuất từ đó có cơ sở lập kế hoạch quản
lý sản xuất, cung cấp dịch vụ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Góp phần
11
thông tin kịp thời cho các nhà quản lý ra quyết định giá bán sản phẩm, chấp
nhận hay từ chối một đơn đặt hàng, phân tích khả năng đạt kết quả lợi nhuận
trong kinh doanh. Là cơ sở để tổ chức, điều hành sản xuất, giao khoán và
nâng cao tinh thần trách nhiệm của bộ, công nhân viên đối với việc sử dụng
các nguồn tài nguyên tiết kiệm nhất.
1.1.4. Định mức chi phí cấp nước thô
1. Khái niệm nước thô
Nguồn nước cấp từ công trình thuỷ lợi, từ hệ thống sông ngòi tự nhiên
cho các nhà máy và công trình sản xuất cấp nước sạch cho công nghiệp và
sinh hoạt và các hoạt động sản xuất gọi là nước thô. Như vậy, có thể hiểu:
nước thô là nguồn nước tự nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch.
2. Khái niệm Định mức chi phí cấp nước thô
Định mức chi phí cấp nước thô là chi phí tối đa cho phép mà một doanh
nghiệp quản lý khai thác công trình thủy lợi bỏ ra trong một chu kỳ sản xuất,
ứng với điều kiện năm sản xuất bình thường, mặt bằng giá cả nhất định, để
hoàn thành việc cung cấp một khối lượng nước thô đảm bảo chất lượng thảo
thuận đến vị trí lấy nước của các công trình cấp nước của các đơn vị dùng
nước trên hệ thống.
Vậy định mức chi phí cấp nước thô được hiểu là việc xác định giới hạn
tối đa cho phép của các khoản mục chi phí sử dụng trong quá trình quản l ý
vận hành cung cấp nguồn nước thô cho các đối tượng dùng nước từ các công
trình thuỷ lợi, trong một chu kỳ sản xuất, ứng với một điều kiện tổ chức sản
xuất cụ thể.
Chi phí cấp nước thô ở với hệ thống thuỷ lợi, thường bao gồm các
thành phần chi phí sau: Chi phí tiền lương; Chi phí các khoản theo lương; Chi
phí nạo vét kênh mương; Chi phí dụng cụ, vật tư dùng trong viêc duy trì vệ
sinh kênh mương; Chi phí vật tư, nguyên nhiên liệu để bảo dưỡng, vận hành
12
công trình; Chi phí sửa chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ cấp nước
thô; Chi phí khấu hao tài sản cố định; Chi phí quản lý doanh nghiệp; Các chi
phí khác; Chi phí chi trả tạo nguồn.
Như vậy, thực chất của các khái niệm định