Luận văn Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi”, Vật lí 11 nâng cao Trung học phổ thông

Trong xã hội hiện đại ngày nay, những hiểu biết của chúng ta rất mau chóng trở thành lạc hậu, nên mỗi con người sống trong xã hội hiện đại phải biết cập nhật thông tin. Một trong những cách khắc phục hiệu quả nhất là phải biết tự học. Vì vậy, giáo viên phải có chiến lược bồi dưỡng phương pháp tự học cho học sinh. Việc rèn luyện cho học sinh khả năng tự học còn là một biện pháp giúp ta giải quyết một khó khăn rất lớn là: mâu thuẫn giữa một bên là những yêu cầu cao về việc bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng và một bên là sự hạn hẹp của thời gian dành cho mỗi môn học. Vật lí là một khoa học thực nghiệm. Việc sử dụng thí nghiệm vật lí trong quá trình dạy học là cần thiết và trở thành nhiệm vụ cấp bách của giáo viên vật lí. Thực tiễn dạy học theo chương trình và sách giáo khoa mới hiện nay, việc sử dụng các thí nghiệm trong quá trình dạy học vật lí gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh. Trong dạy học vật lí có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau để bồi dưỡng năng lực tự học cho HS trong đó phương pháp sử dụng hệ thí nghiệm được coi là quan trọng vì nó tạo ra được sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động.

doc75 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5799 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi”, Vật lí 11 nâng cao Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang phụ bìa i Lời cam đoan ii Lời cảm ơn iii BẢNG GHI CHÚ CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3 MỞ ĐẦU 4 1. Lí do chọn đề tài 4 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 5 3. Mục tiêu của đề tài 7 4. Giả thuyết khoa học 7 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 7 7. Phạm vi nghiên cứu 8 8. Phương pháp nghiên cứu 8 9. Cấu trúc của đề tài 8 NỘI DUNG 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 10 1.1. Cơ sở lí luận 10 1.1.1. Thí nghiệm vật lí và vai trò của nó trong quá trình dạy học 10 1.1.2. Tự học và năng lực tự học 11 1.1.3. Kĩ năng tự học 16 1.1.4. Vai trò của thí nghiệm trong bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh 19 1.2 Cơ sở thực tiễn 23 1.2.1. Nhận thức của giáo viên và học sinh về tự học và thực trạng của việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông hiện nay 23 1.2.2. Thực trạng về vấn đề sử dụng thí nghiệm để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông hiện nay 24 1.2.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng thí nghiệm để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh 25 1.3. Kết luận chương 1 26 CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM THEO HƯỚNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐIỆN TÍCH - ĐIỆN TRƯỜNG” VÀ “DÒNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI” 27 2.1. Khái quát nội dung chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” 27 2.2. Khai thác thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” 30 2.3. Các biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông thông qua việc sử dụng thí nghiệm 42 2.3.1. Tăng cường sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong khâu mở đầu và nghiên cứu kiến thức mới 42 2.3.3. Tăng cường sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong khâu kiểm tra đánh giá tự học 44 2.4. Thiết kế một số bài dạy học sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh THPT 44 2.5. Kết luận chương 2 60 CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 62 3.1. Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 62 3.2. Đối tượng và nội dung của thực nghiệm sư phạm 62 3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 63 3.4. Kết quả thực nghiệm sư phạm 64 3.5. Kết luận chương 3 69 KẾT LUẬN 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC P1 BẢNG GHI CHÚ CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt  Viết đầy đủ   ĐC  Đối chứng   GV  Giáo viên   HS  Học sinh   NXB  Nhà xuất bản   PPDH  Phương pháp dạy học   SGK  Sách giáo khoa   TN  Thực nghiệm   TNSP  Thực nghiệm sư phạm   THPT  Trung học phổ thông   MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ mà tri thức và kĩ năng của con người được coi là yếu tố quyết định đến sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người đặt ra cho giáo dục của mọi quốc gia trên thế giới là phải nhanh chóng đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai. Cùng với xu thế phát triển chung của nền giáo dục thế giới, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta được Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đã nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học” [30]. “Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện đạo đức, trí dục, thể dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” [1]. Ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, mục đích giáo dục hiện nay không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ cho học sinh (HS) những kiến thức, kĩ năng loài người đã tích lũy được mà còn đặt biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành và năng lực giải quyết vấn đề. Một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện đường lối trên là đưa học sinh vào vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực trí tuệ. Luật giáo dục, điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” Thực trạng giáo dục ở nước ta qua nghiên cứu cho thấy việc giảng dạy kiến thức cho HS nói chung và kiến thức vật lí nói riêng vẫn còn theo lối: “Thầy đọc trò chép”, HS phổ thông có quá ít điều kiện nghiên cứu, quan sát và tiến hành các thí nghiệm vật lí. Giáo viên (GV) vẫn còn duy trì các phương pháp dạy học truyền thống, coi trọng kiến thức bài giảng hơn là đề cập đến phương pháp tự học của HS. Trong xã hội hiện đại ngày nay, những hiểu biết của chúng ta rất mau chóng trở thành lạc hậu, nên mỗi con người sống trong xã hội hiện đại phải biết cập nhật thông tin. Một trong những cách khắc phục hiệu quả nhất là phải biết tự học. Vì vậy, giáo viên phải có chiến lược bồi dưỡng phương pháp tự học cho học sinh. Việc rèn luyện cho học sinh khả năng tự học còn là một biện pháp giúp ta giải quyết một khó khăn rất lớn là: mâu thuẫn giữa một bên là những yêu cầu cao về việc bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng và một bên là sự hạn hẹp của thời gian dành cho mỗi môn học. Vật lí là một khoa học thực nghiệm. Việc sử dụng thí nghiệm vật lí trong quá trình dạy học là cần thiết và trở thành nhiệm vụ cấp bách của giáo viên vật lí. Thực tiễn dạy học theo chương trình và sách giáo khoa mới hiện nay, việc sử dụng các thí nghiệm trong quá trình dạy học vật lí gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh. Trong dạy học vật lí có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau để bồi dưỡng năng lực tự học cho HS trong đó phương pháp sử dụng hệ thí nghiệm được coi là quan trọng vì nó tạo ra được sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động. Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi”, Vật lí 11 nâng cao Trung học phổ thông” làm đề tài luận văn thạc sĩ giáo dục học. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng thí nghiệm trong dạy Vật lí ở trường phổ thông như: Luận án tiến sĩ của Lê Văn Giáo “Nghiên cứu quan niệm của học sinh về một số khái niệm vật lí trong phần Quang học, Điện học và việc giảng dạy các khái niệm đó ở trường Trung học cơ sở”. Luận án đã xây dựng hệ thống cơ sở lí luận về thí nghiệm thực hành vật lí và sử dụng thí nghiệm tự tạo để khắc phục quan niệm sai lệch của học sinh trong dạy học vật lí. Từ đề tài này có thể làm cơ sở để nghiên cứu cơ sở lí luận về thí nghiệm thực hành vật lí. Luận án tiến sĩ của Huỳnh Trọng Dương “Nghiên cứu xây dựng và sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lí ở trường trung học cơ sở”, trong luận án của mình tác giả nghiên cứu vai trò của thí nghiệm vật lí với việc phát huy tính tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh ở trường phổ thông, qua đó đã xây dựng và sử dụng một số thí nghiệm trong dạy học vật lí ở trường Trung học cơ sở. Luận án tiến sĩ của Trần Văn Thạnh “Nghiên cứu sử dụng phối hợp thí nghiệm vật lí với các phương tiện nghe nhìn trong dạy học vật lí lớp 9 Trung học cơ sở”, nghiên cứu xây dựng qui trình sử dụng phối hợp thí nghiệm vật lí với các phương tiện nghe nhìn nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trên giờ lên lớp. Luận văn thạc sĩ của Lương Thị Thanh Thanh “Nghiên cứu khai thác và sử dụng thí nghiệm tự tạo trong dạy học phần Nhiệt học ở Trung học cơ sở”, trong luận văn của mình tác giả cũng nghiên cứu sử dụng thí nghiệm tự tạo nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh khi dạy “Nhiệt học” ở THCS. Về cơ sở lí luận về tự học thì các tác giả như Nguyễn Kỳ, Lưu Xuân Mới, Trần Bá Hoành, Nguyễn Quang Lạc, Nguyễn Cảnh Toàn, Thái Duy Tuyên, Lê Công Triêm, Lê Đình, Trần Huy Hoàng, Võ Chấp…đã xây dựng khá hoàn chỉnh, đã coi tự học là một hình thức, một phương pháp học tập cơ bản và cốt lõi đối với người học. Đặc biệt, trong các nghiên cứu của mình các tác giả rất chú trọng đến việc bồi dưỡng năng lực tự học cho HS, sinh viên bằng nhiều biện pháp khác nhau. Các luận văn nghiên cứu về vấn đề tự học và các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho HS THPT như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thiên Nga với đề tài "Nâng cao hiệu quả dạy học vật lí ở trường THPT thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho HS". Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phú Đồng “Nghiên cứu sử dụng bài tập vật lí theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học phần “Dòng điện không đổi”, Vật lí 11 Trung học phổ thông” trong luận văn của mình tác giả tuyển chọn và xây dựng được hệ thống các bài tập vật lí phần “Dòng điện không đổi” theo hướng rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trung học phổ thông (THPT) và các biện pháp sử dụng bài tập vật lí có hiệu quả nhằm bồi dưỡng năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng học tập phần “Dòng điện không đổi” của học sinh THPT. Tuy nhiên, do xuất phát từ các mục đích khác nhau nên các công trình nghiên cứu trên chưa đi sâu vào việc sử dụng có hiệu quả thí nghiệm nhằm bồi dưỡng năng lực tự học cho HS trong dạy học vật lí ở trường THPT. Với đề tài của mình, chúng tôi sẽ kế thừa những cơ sở lí luận của các công trình nghiên cứu trước đây, điểm mới ở đây là chú trọng nghiên cứu sử dụng các thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng học tập của HS khối lớp 11 nói riêng và của HS bậc THPT nói chung. 3. Mục tiêu của đề tài Xác định được các biện pháp sử dụng thí nghiệm có hiệu quả nhằm bồi dưỡng năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng học tập chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” của học sinh THPT. 4. Giả thuyết khoa học Nếu tăng cường sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho HS trong quá trình dạy học thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của HS trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lí ở trường THPT. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Nghiên cứu cơ sở lí luận về thí nghiệm trong dạy học vật lí Nghiên cứu cơ sở lí luận về vấn đề tự học Nghiên cứu nội dung, chương trình và sách giáo khoa vật lí 11 Điều tra thực trạng về vấn đề sử dụng thí nghiệm trong việc bồi dưỡng năng lực tự học cho HS ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng thí nghiệm để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh THPT - Thiết kế một số bài dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” theo hướng sử dụng thí nghiệm để bồi dưỡng năng lực tự học cho HS lớp 11 THPT. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả và rút ra kết luận. 6. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi”, Vật lí 11 nâng cao THPT theo hướng sử dụng thí nghiệm để bồi dưỡng năng lực tự học cho HS. 7. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm trong chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” vật lí 11 nâng cao THPT. 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết Nghiên cứu những văn kiện của Đảng, các Chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các sách, bài báo, tạp chí chuyên ngành về dạy học và đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT. Nghiên cứu cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp dạy học vật lí phổ thông, các luận văn có liên quan đến đề tài Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách bài tập, tài liệu tham khảo vật lí lớp 11 THPT. 8.2. Phương pháp điều tra Điều tra bằng phiếu thăm dò về việc sử dụng thí nghiệm ở trường THPT và năng lực tự học của học sinh ở một số trường phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 8.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Tiến hành thực nghiệm sư phạm (TNSP) tại một số trường THPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 8.4. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí các kết quả TNSP nhằm kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối tượng (thực nghiệm và đối chứng). 9. Cấu trúc của đề tài Đề tài gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận Mở đầu Nội dung Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh dạy học vật lí Chương 2: Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Điện tích - Điện trường” và “Dòng điện không đổi” Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Kết luận Tài liệu tham khảo Phần phụ lục NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Thí nghiệm vật lí và vai trò của nó trong quá trình dạy học 1.1.1.1. Thí nghiệm vật lí Thí nghiệm vật lí là sự tác động có chủ định, có hệ thống của con người vào các đối tượng của hiện thực khách quan. Thông qua sự phân tích các điều kiện mà trong đó đã diễn ra sự tác động và các kết quả của sự tác động, ta có thể thu nhận được tri thức mới. [5]. 1.1.1.2. Vai trò của thí nghiệm vật lí Thí nghiệm vật lí có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề nghiên cứu, hình thành kiến thức kĩ năng mới, củng cố kiến thức, kĩ năng đã thu được và kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của HS. Ở giai đoạn định hướng mục đích nghiên cứu, thí nghiệm vật lí được sử dụng để đề xuất vấn đề cần nghiên cứu. Đặc biệt có hiệu quả là việc sử dụng thí nghiệm vật lí để tạo tình huống có vấn đề. Kết quả của những thí nghiệm được sử dụng trong giai đoạn này thường mâu thuẩn với kiến thức, kinh nghiệm có sẳn của HS, do đó tạo nhu cầu hứng thú tìm tòi kiến thức mới của HS. Trong giai đoạn hình thành kiến thức mới, thí nghiệm sẽ cung cấp một cách có hệ thống các cứ liệu thực nghiệm, để từ đó khái quát hóa quy nạp, kiểm tra được tính đúng đắn của giả thuyết hoặc hệ quả logic rút ra từ giả thuyết đã đề xuất, hình thành kiến thức mới. Trong giai đoạn củng cố kiến thức, kĩ năng của HS thí nghiệm vật lí có vai trò không những kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn đánh giá khả năng tự lực, sáng tạo của HS trong quá trình thí nghiệm [11], [13]. Theo quan điểm của lí luận nhận thức, thí nghiệm là phương tiện của việc thu nhận tri thức, là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, và là phương tiện để vận dụng tri thức vào thực tiễn. Ngày nay, trong dạy học không chỉ chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho HS mà còn quan tâm đến việc phát triển nhân cách toàn diện cho HS. Chúng ta biết rằng thí nghiệm thường có mặt trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng, quá trình vật lí, định luật vật lí… nên HS thu nhận kiến thức có tính chính xác, tính khái quát, tính bền vững và tính vận dụng được. Do đó, góp phần nâng cao chất lượng kiến thức rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo về vật lí cho HS [13]. Bên cạnh đó, thí nghiệm được sử dụng để phát hiện và khắc phục các quan niệm sai lầm của HS. Bởi như chúng ta biết rằng, HS trước khi đến trường, trước giờ học đã có những hiểu biết, những quan niệm về các hiện tượng, khái niệm và quá trình vật lí sắp được nghiên cứu trong giờ học. Song đa số những hiểu biết, quan niệm ấy đều sai lệch ra khỏi bản chất vật lí hoặc nó không có đủ các cơ sở để hiểu những vấn đề sẽ nghiên cứu trong giờ học. Đối với các thí nghiệm tự mình tiến hành, HS có nhiều cơ hội để rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành góp phần vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. Qua quá trình làm việc tự lực với thí nghiệm của HS sẽ gợi sự hứng thú nhận thức, lòng ham muốn nghiên cứu, tạo niềm vui của sự thành công khi giải quyết được nhiệm vụ đặt ra và góp phần phát triển động lực quá trình học tập của HS. Tóm lại, thí nghiệm vật lí giữ vai trò quan trọng trong dạy học vật lí ở trường phổ thông có tác dụng lớn trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS [2]. Vì vậy, dạy học vật lí cần phải gắn với thí nghiệm vật lí. Thí nghiệm vật lí không chỉ là nguồn tri thức, là phương tiện có nhiều sức mạnh trong nghiên cứu vật lí, là tiêu chuẩn chân lí của các kiến thức về thế giới tự nhiên mà còn tạo ra kích thích hứng thú, kích thích tính tích cực, tự giác và sáng tạo của HS đồng thời cũng là một phương pháp dạy học sát với thực tế giáo dục của Việt Nam: “Học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn” [11]. 1.1.2. Tự học và năng lực tự học 1.1.2.1. Tự học Khái niệm về tự học (Self Directed Learning – SDL) bắt nguồn từ việc giáo dục cho người trưởng thành, là một giải pháp thực hiện bởi học viên người lớn ở tiểu học và trung học. Hiện nay, việc định nghĩa về tự học đã có nhiều thay đổi nhưng tựu trung lại có một số quan điểm sau: Theo Bolhuis và Garrison thì “Tự học là sự tích hợp của việc tự quản lí với tự kiểm soát của người học, đó là quá trình mà người học tự theo dõi, đánh giá và điều chỉnh chiến lược nhận thức của mình. Người học là chủ thể trong sự hợp tác chặt chẽ của GV và các bạn học cùng lớp” [7]. Tác giả GS. Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [26]. Tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định” [18]. Nguyễn Kỳ viết “Tự học nghĩa là người học tích cực chủ động tự mình tìm ra bằng hành động của mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn, học thầy và học mọi người. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình để nhận biết vấn đề, thu thập xử lí thông tin cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…” [16]. Như vậy có thể hiểu, tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo…, kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung và của chính bản thân người học. Đó là hoạt động nhận thức mang tính tích cực, chủ động, tự giác, phát huy cao độ vai trò của người học với sự hợp tác của thầy cô, bạn bè và các điều kiện học tập. Có nhiều cách tự học khác nhau như [18]: -Tự học giáp mặt: Những hoạt động học như nghe giảng, ghi chép bài, thảo luận nhóm, làm việc với sách, làm thí nghiệm, quan sát…của HS, được HS thực hiện một cách chủ động, tích cực thì đều được gọi là hoạt động tự học, hoạt động này diễn ra ngay trong quá trình dạy học với sự điều khiển trực tiếp của GV đứng lớp nên gọi là tự học giáp mặt. -Tự học không giáp mặt: Đó là sự tự học không có sự điều khiển trực tiếp của GV mà do HS tự mình độc lập tiến hành với sự hỗ trợ của các phương tiện học tập để tự mình chiếm lĩnh tri thức và tự mình đạt được các mục đích, nhiệm vụ học tập. Tự học loại này có thể tồn tại ở ba mức: +Tự học mức cao: Người học tự học qua sách, qua các phương tiện thông tin. Người học tự học tập một cách độc lập hoàn toàn. +Tự học với sự hướng dẫn (hay điều khiển từ xa): Người học có sách giáo khoa, có các tài liệu hướng dẫn học tập hay có sự hướng dẫn thông qua các phương tiện thông tin như băng ghi hình, ghi tiếng, ti-vi, mạng, các phần mềm dạy học…Sự hướng dẫn tự học chủ yếu là sự hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh tri thức, hướng dẫn phương pháp học tập, hướng dẫn tra cứu, hướng dẫn thí nghiệm. Dưới sự hướng dẫn từ xa ấy, người học tự mình tiến hành các hành động học tập để hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Hiện nay hình