Công cuộc “Đổi mới” do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và không ngừng phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, công cuộc “Đổi mới” đã đạt những thành tựu to lớn. Từ một nước thiếu lương thực triền miên phải nhập khẩu với số lượng hàng triệu tấn mỗi năm, giá trị xuất khẩu nông sản không đáng kể, Nông nghiệp Việt Nam đã vươn lên đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trong nước và trở thành nước xuất khẩu nông sản có vị thế quan trọng trên thế giới. Có được những chuyển biến mới trong lĩnh vực nông nghiệp phải kể đến quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang sản xuất kinh tế hàng hóa cá thể trong đó việc phát triển kinh tế hộ gia đình là một mắt xích quan trọng.
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Đặc biệt để thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 thì phát triển kinh tế hộ là 1 trong 11 nội dung chính của chương trình.
111 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 7649 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân tại huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
CÙ MẠNH HẢO
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN TẠI HUYỆN BÌNH GIA
TỈNH LẠNG SƠN
Chuyên Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số: 60 62 01 16
luËn v¨n th¹c sü khoa häc n«ng nghiÖp
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Văn Điền
Thái Nguyên, năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Cù Mạnh Hảo
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Văn Điền, người đã tận tình hướng dẫn, định hướng và giúp đỡ tôi về chuyên môn trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tập thể các thầy cô giáo trong Phòng QLĐT Sau Đại học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để tôi thực hiện tốt đề tài này. Đồng thời xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Lạng Sơn và UBND huyện Bình Gia, các ban ngành đoàn thể và các xã của huyện đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình công tác và học tập cũng như cơ sở nghiên cứu để tôi thực hiện đề tài này một cách tốt nhất.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình người thân, anh em, bạn bè những người luôn ủng hộ, động viên tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, công tác và thực hiện đề tài. Trong quá trình thực hiện, đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Cù Mạnh Hảo
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
TT
Ký hiệu viết tắt
Nghĩa
1
ANQP
An ninh quốc phòng
2
ATK
An toàn khu
3
BCH
Ban chấp hành
4
BHYT
Bảo hiểm y tế
5
BQ
Bình quân
6
CN-TTCN
Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
7
CT/TW
Chỉ thị Trung ương
8
ĐVT
Đơn vị tính
9
FAO
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
10
GPMB
Giải phóng mặt bằng
11
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
12
GD&ĐT
Giáo dục và đào tạo
13
GCĐ
Giá cố định
14
GD&LĐXH
Giáo dục và lao động xã hội
15
HTX
Hợp tác xã
16
HĐND
Hội đồng nhân dân
17
KH
Kế hoạch
18
KCN
Khu công nghiệp
19
KHCN
Khoa học công nghệ
20
KHKT
Khoa học kỹ thuật
21
LĐ
Lao động
22
NTM
Nông thôn mới
23
NN
Nông nghiệp
24
NK
Nhân khẩu
25
NLN
Nông lâm nghiệp
26
PTNT
Phát triển nông thôn
27
PTTH
Phát thanh truyền hình
28
SKSS/KHHGĐ
Sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình
29
SL
Số lượng
30
TT
Thị trấn
31
THCS
Trung học cơ sở
32
TLSX
Tư liệu sản xuất
33
TN
Thu nhập
34
TNVN
Tiếng nói Việt Nam
35
UBND
Ủy ban nhân dân
36
XDCB
Xây dựng cơ bản
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1. Diện tích, Dân số, mật độ dân số huyện Bình Gia chia theo xã, phường, thị trấn năm 2015 36
Bảng 3.2. Phân loại độ dày tầng đất của huyện năm 2015 38
Bảng 3.3. Đất đai và tình hình sử dụng đất đai của huyện năm 2015 40
Bảng 3.4: Đất đai và tình hình sử dụng đất đai của huyện năm 2015 42
Bảng 3.5: Tình hình dân số và lao động của huyện qua 3 năm 42
Bảng 3.6. Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội của huyện giai đoạn 2013 - 2015 47
Bảng 3.7. So sánh một số chỉ tiêu chung của huyện Bình Gia và tỉnh Lạng Sơn năm 2015 50
Bảng 3.8. Một số chỉ tiêu về kinh tế hộ nông dân của huyện qua 3 năm 54
Bảng 3.9. Đặc điểm chung về hộ nông dân điều tra năm 2015 55
Bảng 3.10. Phân bổ đất đai của nông hộ điều tra năm 2015 57
Bảng 3.11. Một số chỉ tiêu về lao động và nhân khẩu của hộ nông dân điều tra năm 2015 58
Bảng 3.12. Cơ cấu lao động trong độ tuổi của các hộ nông dân năm 2015 59
Bảng 3.13. Trình độ học vấn của chủ hộ điều tra ở vùng nghiên cứu năm 2015 60
Bảng 3.14. Vốn sản xuất bình quân của nông hộ năm 2015 61
Bảng 3.15. Vốn bình quân hộ nông dân năm 2015 62
Bảng 3.16. Tổng giá trị sản phẩm từ sản xuất Nông - Lâm nghiệp của hộ gia đình năm 2015 64
Bảng 3.17. Chi phí sản xuất nông - lâm nghiệp của hộ nông dân năm 2015 66
Bảng 3.18. Tổng thu nhập từ sản xuất Nông -Lâm nghiệp ở hộ điều tra 67
Bảng 3.19. Tổng thu nhập từ sản xuất ngoài Nông-Lâm nghiệp của các hộ 69
Bảng 3.20. Thu nhập của hộ nông dân năm 2015 70
Bảng 3.21. Thu nhập bình quân theo lao động và nhân khẩu 71
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của chủ hộ nông dân tới kết quả sản xuất 72
Bảng 3.23. Thu nhập về sản xuất NLN của hộ nông dân phân theo nguồn lực 74
Bảng 3.24. Phương thức tiêu thụ một số sản phẩm của hộ nông dân vùng nghiên cứu năm 2015 75
Bảng 3.25. Ảnh hưởng của một số yếu tố đến sản xuất của hộ nông dân năm 2015 77
Bảng 3.26. Tổng hợp các chỉ tiêu chủ yếu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chủ yếu của huyện đến năm 2015 tầm nhìn 2020 82
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Bản đồ hành chính huyện Bình Gia 35
Hình 3.2. Cơ cấu sử dụng đất huyện Bình Gia năm 2015 41
Hình 3.3. Tình hình dân số và lao động huyện Bình Gia giai đoạn 2013 - 2015 43
Hình 3.4: Giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Bình Gia Giai đoạn 2013 -2015(theo giá cố định 1994) 49
Hình 3.5. Tổng thu từ sản xuất Nông lâm nghiệp 65
Hình 3.6. Thu nhập từ Nông – lâm nghiệp của hộ nông dân 68
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc “Đổi mới” do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và không ngừng phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, công cuộc “Đổi mới” đã đạt những thành tựu to lớn. Từ một nước thiếu lương thực triền miên phải nhập khẩu với số lượng hàng triệu tấn mỗi năm, giá trị xuất khẩu nông sản không đáng kể, Nông nghiệp Việt Nam đã vươn lên đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trong nước và trở thành nước xuất khẩu nông sản có vị thế quan trọng trên thế giới. Có được những chuyển biến mới trong lĩnh vực nông nghiệp phải kể đến quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang sản xuất kinh tế hàng hóa cá thể trong đó việc phát triển kinh tế hộ gia đình là một mắt xích quan trọng.
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Đặc biệt để thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 thì phát triển kinh tế hộ là 1 trong 11 nội dung chính của chương trình.
Kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam có nhiều ưu việt, nhưng cũng có những khó khăn, hạn chế nhất định về nhiều mặt. Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập cao, tập trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều lần so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết để hạn chế sự chênh lệch trong mặt bằng chung phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là tiếp tục phát triển kinh tế hộ như thế nào? Thực trạng, xu hướng phát triển của kinh tế hộ hiện nay? Các mục tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới. Đó là những vấn đề lớn cần phải được làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn.
Bình Gia là một huyện miền núi của tỉnh Lạng Sơn, trong những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân trong huyện đã đạt được những thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, vốn là huyện miền núi, đất đai rộng lớn, trình độ sản xuất thấp, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, vấn đề khai thác các tiềm năng kinh tế và sử dụng các nguồn lực của hộ nông dân chưa triệt để. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; đặc biệt là phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn - nông dân trong thời kỳ mới, vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân đang được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể các ngành và các nhà khoa học quan tâm. Kinh tế hộ đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế huyện Bình Gia nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói chung, do vậy tôi quyết định chọn: “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân tại huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài tập chung nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân của huyện Bình Gia, và đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy kinh tế hộ nông dân huyện Bình Gia phát triển nâng cao đời sống cho cộng đồng nông dân miền núi trong tiến trình xây dựng nông thôn mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở các xã điều tra.
- Phân tích được ảnh hưởng của các nguồn lực đến kết quả sản xuất của hộ nông dân.
- Phân tích được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức để phát triển kinh tế nông hộ.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Bình Gia trong những năm tới.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Nâng cao nhận thức, tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế hộ và những chính sách liên quan đến phát triển kinh tế hộ trong giai đoạn hiện nay.
- Quá trình thực hiện luận văn sẽ nâng cao năng lực cũng như rèn luyện kỹ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học cho bản thân mỗi học viên.
- Góp phần hoàn thiện những lý luận và phương pháp nhằm đẩy mạnh và phát triển kinh tế hộ nông dân trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn hiện nay.
- Luận văn cũng được coi là một tài liệu tham khảo cho Trường, Khoa, các cơ quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn là cơ sở để các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo tỉnh và địa phương đưa ra các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tại huyện Bình Gia nói riêng và người dân nông thôn nói chung.
4. Giới hạn của luận văn
Do thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ tiến hành tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân trong giai đoạn hiện nay và một vài nhân tố chủ yếu tác động đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân; đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng nông thôn mới trong đó giải pháp kinh tế là chủ yếu tại 3 xã: Hưng Đạo , Thiện Thuật , Tân Văn thuộc 3 vùng sinh thái khác nhau của huyện để đánh giá tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn huyện.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm hộ
Hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triển. Trải qua mỗi thời kỳ kinh tế khác nhau, hộ và kinh tế hộ được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau song vẫn có bản chất chung đó là “Sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên trong gia đình cố gắng làm sao tạo ra nhiều của cải vật chất để nuôi sống và tăng thêm tích luỹ cho gia đình và xã hội ”.
Qua nghiên cứu cho thấy, có nhiều quan niệm của các nhà khoa học về hộ:
- Theo từ điển chuyên ngành kinh tế và từ điển ngôn ngữ “Hộ là tất cả những người cùng sống chung trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công”.
- Theo Liên hợp quốc “Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.
- Năm 1981, Harris (London - Anh) trong tác phẩm của mình cho rằng: “Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động” [15, 17] và trên góc độ này, nhóm các đại biểu thuộc trường phái “Hệ thống Thế Giới” (Mỹ) là Smith (1985) Martin và Beiltell (1987) có bổ sung thêm: “Hộ là một đơn vị đảm bảo quá trình tái sản xuất nguồn lao động thông qua việc tổ chức nguồn thu nhập chung” [28].
- Tại Hội thảo Quốc tế lần thứ 2 về quản lý nông trại tại Hà Lan (năm 1980) các đại biểu nhất trí cho rằng: “Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tiêu dùng, xem như là một đơn vị kinh tế” [8,15].
Đây mới chủ yếu nêu lên những khía cạnh về khái niệm hộ tiêu biểu nhất, mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác hoặc tổng hợp khái quát chung nhưng vẫn còn có chỗ chưa đồng nhất. Tuy nhiên, từ các quan niệm trên cho thấy hộ được hiểu như sau:
- Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có chung huyết thống, tuy vậy cũng có cá biệt trường hợp thành viên của hộ không phải cùng chung huyết thống (con nuôi, người tình nguyện và được sự đồng ý của các thành viên trong hộ công nhận cùng chung hoạt động kinh tế lâu dài...).
- Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động và phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và được phân phối lợi ích theo thỏa thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước...
- Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dầu cùng chung huyết thống bởi vì hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau...)
1.1.2. Hộ nông dân
Về hộ nông dân, tác giả Frank Ellis định nghĩa “Hộ nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao” [14].
Nhà khoa học Traianốp cho rằng “Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất ổn định” và ông coi “hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển nông nghiệp” [7, 9, 26].
Luận điểm trên của ông đã được áp dụng rộng rãi trong chính sách nông nghiệp tại nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển.
Đồng tình với quan điểm trên của Traianốp, hai tác giả Mats Lundahl và Tommy Bengtsson bổ sung và nhấn mạnh thêm “Hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản” [26, tr.5]. Chính vì vậy, cải cách kinh tế ở một số nước những thập kỷ gần đây đã thực sự coi hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ và cơ bản, từ đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993) cho rằng: “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn” [4, 14]. Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn” [20]. Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc, trong phân tích điều tra nông thôn năm 2001 cho rằng: “Hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thủy nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật,...) và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp” [2, 5].
Nghiên cứu những khái niệm trên đây về hộ nông dân của các tác giả và theo nhận thức cá nhân, tôi cho rằng:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi nông nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ...) ở các mức độ khác nhau.
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thị trường, xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình hiện nay.
1.1.3. Kinh tế hộ nông dân
Hộ nông dân là thực thể kinh tế văn hóa xã hội chủ yếu ở nông thôn, vì vậy cần phải hệ thống lý thuyết về phát triển kinh tế hộ nông dân làm nền tảng cho việc phân tích, đánh giá và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế nông thôn.
Sau các công trình nghiên cứu về kinh tế nông dân của C.Mác và V.I.Lênin đã xuất hiện một xu hướng nghiên cứu về sự phát triển kinh tế hộ nông dân.
Theo Hemery, Margolin (1988) thì “xã hội nông dân lạc hậu không nhất thiết phải đi lên chủ nghĩa tư bản, mà có thể phát triển lên chế độ xã hội khác bằng con đường phi tư bản chủ nghĩa” [7, 29].
Các tác giả của thuyết dân túy cho rằng có nhiều con đường phát triển của lịch sử, lịch sử không phải chỉ có một con đường phát triển mà nó tiến hóa bằng các chu kỳ, mang tính chất vùng, có các thời kỳ trì trệ và tiến lên. Do đó, các nước đi sau có thể đuổi kịp, thậm chí có thể vượt các nước đi trước. Phải đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phục hồi nền văn minh nông dân, chủ yếu là cộng đồng nông thôn và hợp tác xã thủ công nghiệp. Phải tiến hành công nghiệp hóa do nhà nước. Chỉ có bằng cách này mới công nghiệp hóa mà tránh được các nhược điểm của chủ nghĩa xã hội.
Trong quyển I của bộ Tư bản, C.Mác đã phân tích kỹ quá trình tước đoạt ruộng đất của nông dân Anh một cách ồ ạt, làm phá vỡ nền nông nghiệp truyền thống và sự hình thành của các tầng lớp trại chủ tư bản chủ nghĩa thuê đất và vay vốn của địa chủ, bóc lột người làm thuê. Người dự đoán, kinh tế hộ sẽ hoàn toàn bị xóa bỏ trong điều kiện phát triển đại công nghiệp. Nhưng ở quyển III, C.Mác khẳng định, ngay ở Anh, với thời gian đã thấy hình thức sản xuất nông nghiệp cơ bản được phát triển không phải là các nông trại lớn mà là các nông trại gia đình, không dùng lao động làm thuê. Các nông trại lớn không có khả năng cạnh tranh với nông trại gia đình.
V.I.Lênin cho rằng: “cải tạo tiểu nông không phải là tước đoạt của họ mà phải tôn trọng sở hữu cá nhân của họ, khuyến khích họ liên kết với nhau một cách tự nguyện để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chính họ”. Khi phân tích kết cấu xã hội nông dân nước Nga, V.I.Lênin đã lưu ý, hộ nông dân khai thác triệt để năng lực sản xuất đáp ứng những nhu cầu đa dạng của gia đình và xã hội. Ông đã chỉ ra “năng lực tự quyết định của quá trình sản xuất của hộ nông dân trong nền kinh tế tự cung tự cấp, là mầm mống của những chiều hướng phát triển hàng hóa khác nhau, chính nó sẽ tự phá vỡ các quan hệ khép kín của hộ dẫn đến những quá trình sự vỡ kết cấu kinh tế” [4, 29].
David (1903) đã nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản không làm phá sản nền sản xuất tiểu nông, nền kinh tế này có “ưu thế”, “ổn định”, nếu so với các nông trại lớn tư bản chủ nghĩa.
Theo Tchayanov (1924), luận điểm cơ bản nhất của Tchayanov là coi kinh tế hộ nông dân là một phương thức sản xuất tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Mỗi phương thức sản xuất có những quy luật phát triển riêng của nó, và trong mỗi chế độ, nó tìm cách thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao không kể thu nhập ấy do nguồn gốc nào, trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề đó là kết quả chung của lao động gia đình.
Khái niệm gốc để phân tích kinh