Lịch sử phát triển kinh tế của loài người từ trước đến nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế xã hội. Nổi bật và rõ nét nhất đó là các hình thái kinh tế
công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh
tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách hợp lý và phù hợp nhất từ
việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản
của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế
của nhà nước. Do đó tìm ra một cơ chế quản lý phù hợp nhất đối với mỗi quốc
gia đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu và tìm tòi.
ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng cơ chế kinh tế được chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
- tập trung quan liêu bao cấp - là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và khá phức tạp
chưa từng xảy ra trong lịch sử phát triển kinh tế của bất cứ một quốc gia nào.
Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta cần phải tỉnh táo nhìn nhận đối với mỗi quyết
định của mình. Trước kia trong nền kinh tế hiện vật vai trò kinh tế của nhà nước
được cường điệu quá mức, đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường vai trò kinh tế của nhà nước đã thay đổi như
thế nào. Đó chính là nội dung sẽ được làm rõ trong đề tài: “Nghiên cứu vai trò kinh
tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay”.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Lịch sử phát triển kinh tế của loài người từ trước đến nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế xã hội. Nổi bật và rõ nét nhất đó là các hình thái kinh tế
công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh
tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách hợp lý và phù hợp nhất từ
việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản
của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế
của nhà nước. Do đó tìm ra một cơ chế quản lý phù hợp nhất đối với mỗi quốc
gia đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu và tìm tòi.
ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng cơ chế kinh tế được chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
- tập trung quan liêu bao cấp - là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và khá phức tạp
chưa từng xảy ra trong lịch sử phát triển kinh tế của bất cứ một quốc gia nào.
Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta cần phải tỉnh táo nhìn nhận đối với mỗi quyết
định của mình. Trước kia trong nền kinh tế hiện vật vai trò kinh tế của nhà nước
được cường điệu quá mức, đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường vai trò kinh tế của nhà nước đã thay đổi như
thế nào. Đó chính là nội dung sẽ được làm rõ trong đề tài: “Nghiên cứu vai trò kinh
tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay”.
Với năng lực và trình độ có hạn tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn sinh viên để đề án được hoàn thành một cách tốt
đẹp, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
Việt Nam.
A - đặt vấn đề
“ Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” là đề tài nghiên cứu sự kết hợp hài hoà
tương hỗ lẫn nhau giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”. Hay nói một
cách khác là nghiên cứu sự kết hợp giữa sự quản lý của nhà nước và cơ chế thị
trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất đồng
thời hạn chế và khắc phục được những khuyết tật của thị trường một cách có hiệu
quả nhất.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, sự can thiệp của
nhà nước vào kinh tế đã hạn chế được những khuyết tật của thị trường, tạo lập
các cân đối vĩ mô, ngăn ngừa những đột biến xấu. Nhà nước tạo điều kiện và môi
trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều tiết các quan hệ kinh tế thông
qua chính sách kinh tế vĩ mô, phân bổ các nguồn lực, quản lý tài sản quốc gia
nhằm bảo đảm phát triển các tài sản đó, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, hạn chế bất công, bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập, tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu của các cơ sở kinh
tế nhà nước để tác động vào thị trường bảo đảm định hướng chính trị phù hợp với
mục tiêu phát triển của mỗi đất nước.
Vì vậy tìm ra nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước đối với nước ta hiện
nay xuyên suốt từ định hướng chiến lược hệ thống luật pháp đến các công đoạn
trong kế hoạch hành động từ vĩ mô đến vi mô là nội dung xin được nghiên cứu
xem xét trong đề án kinh tế chính trị này. Với các mục chính như sau:
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước .
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối
với nền kinh tế.
III - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
IV - Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế
của nhà nước.
B - Giải quyết vấn đề
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước.
1 - Các lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước
a - Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin:
Chủ nghĩa Mác - Lê nin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài
người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước luôn luôn vận động
phát triển tồn tại và cũng sẽ tiêu vong khi những tiêu vong khi những điều kiện
khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó không còn nữa. Quan điểm duy vật
lịch sử chứng tỏ rằng chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu
tiên trong lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà
nước. Xã hội tổ chức thành các thị tộc, nhiều thị tộc hợp lại thành bào tộc nhiều
bào tộc hợp lại thành bộ lạc. Quyền lực là quyền lực xã hội, không có quyền lực
đặc biệt không mang tính cưỡng chế tổ chức xã hội rất đơn giản trong thị tộc có
hội đồng thị tộc trong bào tộc có hội đồng bào tộc, trong bộ lạc có hội đồng bộ
lạc. Dần dần năng suất lao động tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển cộng với
ba lần phân công lao động: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp, làm xuất hiện ngành thương nghiệp chế độ tư hữu về tài sản
dẫn đến có sự phân chia giai cấp là chủ nô và nô lệ. Lúc này chế độ thị tộc không
còn phù hợp nữa xã hội đòi hỏi có một tổ chức khác có khả năng giải quyết các
xung đột và mâu thuẫn đó chính là nhà nước. Vậy nhà nước theo Mác - Lênin “ là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự chung bảo vệ địa
vị thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp”.
b - Lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Bằng phương pháp trừu tượng hoá kinh tế chính trị học trường phái cổ điển
đã xâm nhập vào sâu bên trong các hiện tượng và quá trình kinh tế. Trường phái
kinh tế chính trị học cổ điển thừa nhận sự tồn tại của các qui luật kinh tế khách quan
không phụ thuộc vào ý chí con người. Những qui luật đó có khả năng đảm bảo sự cân
bằng tự nhiên trong hệ thống kinh tế.Vì vậy trường phái cổ điển tán thành hạn chế
bằng mọi cách sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Và tiếp theo đó vào những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng giống như trường phái cổ điển các nhà kinh tế
học trường phái tân cổ điển ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà
nước vào kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm
bảo thăng bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Như vậy có thể nói rằng trong lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ
điển họ phủ nhận sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ cho rằng nhà nước
không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà bản thân các qui luật kinh tế
có thể tự điều tiết và đưa đến sự cân bằng.
c - Lý luận của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước:
Theo Keynes để đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và
khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần phải có
sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế để tăng “cầu có hiệu quả” kích thích tiêu
dùng sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì
vậy ông đề nghị nhà nước phải duy trì cầu đầu tư. Muốn vậy phải sử dụng nguồn
ngân sách của nhà nước để kích cầu đầu tư của tư nhân và nhà nước. Ông chủ
trương thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống mua của nhà nước, trợ
cấp về tài chính, tín dụng do ngân sách Nhà nước, đảm bảo để tạo sự ổn định về
lợi nhuận và đầu tư cho tư bản độc quyền.
Để kích thích đầu tư cần phải xây dựng lòng tin và lạc quan của doanh
nhân, phải có các biện pháp tăng cường lợi nhuận và giảm lãi suất. Muốn vậy
phải tăng cường đưa tiền vào lưu thông, thực hiện “lạm phát có mức độ”. Ông
cho rằng “lạm phát có mức độ” sẽ kích thích tính tích cực hoạt động của tư bản
độc quyền, tăng hiệu quả giới hạn của tư bản. Đó là biện pháp có hiệu quả để
kích thích tình hình thị trường và không có gì nguy hiểm. Từ đó ông đề nghị thực
hiện “lạm phát có điều tiết”.
Để bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách nhà nước, Keynes đề nghị phải in
thêm tiền giấy. Ông cho rằng làm như vậy sẽ duy trì được tình hình thị trường
trong thời kỳ sản xuất và việc làm giảm sút.
Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái nhà nước. Nhờ
đó mà bổ sung ngân sách, tác động tích cực đến cục diện thị trường điều tiết việc
làm.
Có thể nói rằng Keynes đánh giá cao vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước
và xem nhẹ cơ chế tự điều tiết của thị trường. Theo ông khủng hoảng và thất
nghiệp là do chính sách lỗi thời không can thiệp của nhà nước do tự do kinh tế
gây ra, muốn có cân bằng kinh tế nhà nước phải can thiệp kinh tế thực hiện điều
chỉnh kinh tế .
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước nói chung trong lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế nhà nước được phôi thai ngay từ buổi
ban đầu, khi nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên
trong lịch sử đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải
sản xuất ra. Nhà nước chủ nô trong thời kỳ này là nhà nước của giai cấp chủ nô
do đó vai trò chính của nó là quản lý xã hội phục vụ lợi ích của giai cấp chủ nô
bằng các thủ đoạn bạo lực chiếm đoạt và cưỡng bức kinh tế đối với giai cấp nô lệ.
Chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự xâm lăng của các bộ lạc khác.
Trong xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp phong
kiến bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong xã hội phong kiến nhà nước
phong kiến can thiệp vào tất cả các quá trình kinh tế từ việc phân phối của cải vật
chất cho đến việc phát triển kinh tế. Nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế nông
nhghiệp thô sơ và lạc hậu hoạt động dưới sự điều khiển của nhà nước phong kiến
thông qua các chính sách ruộng đất.
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nhà nước tư sản ra đời can thiệp vào nền
kinh tế với vai trò như “bà đẻ” của nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ
ngoại thương làm cho nền kinh tế thị trường phát triển mạnh nâng cao tích luỹ và
tiền của cho giai cấp tư sản.
Trong thời kỳ XHCN nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trực tiếp quản lý
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các kế hoạch, chỉ
tiêu pháp lệnh. Phát triển nền kinh tế theo xu hướng kế hoạch hoá tập trung.
Quan tâm đến lợi ích xã hội và đời sống đại đa số nhân dân.
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
nền kinh tế ở Việt Nam.
1 - Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta :
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ
nghĩa đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình
thức sở hữu công cộng về TLSX. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận
tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được
những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ
kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan
trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù
hợp. Nó đã tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước
huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế
xã hội đã thay đổi. Các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, vì vậy việc áp dụng
cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực. Đến cuối những năm 80 giá cả leo thang khủng hoảng kinh
tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một
số địa phương nạn đói đang rình rập.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như vậy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
nước ta là một tất yếu khách quan phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.
a - Về mặt lý luận
Chúng ta thấy rằng đổi mới cơ chế quản lý là phù hợp với các qui luật kinh
tế và các quan hệ kinh tế mới nảy sinh. Một khi mà các quan hệ kinh tế mới xuất
hiện các nhu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng nâng cao,
các nhân tố của thị trường đã hình thành và phát triển thông suốt và vươn tới các
thị trường quốc tế thì việc không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế cũ kế
hoạch hoá tập trung - là một điều phi khoa học. mặt khác xem xét về mối quan hệ
kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị
trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước
ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế
thị trường thế giới. Xem xét về xu hướng chung phát triển kinh tế htế giới. Ta
thấy sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà
nhập quốc tế. Vậy đổi mới cơ chế kinh tế là điều đúng đắn về mặt lý luận.
b - Về mặt thực tiễn:
Thực trạng nước ta trước những năm 1986 cho thấy với cơ chế quản lý kinh
tế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế nước ta đang lâm vào tình trạng bế tắc, tài
nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả sự
tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách
bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ cho tiêu dùng, tích luỹ
hàng năm hầu như không có. Mà nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái kinh tế đó
là do ta rập khuôn mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung không còn thích hợp
nữa vả lại còn chứa đựng nhiều nhược điểm kìm hãm sự phát triển kinh tế đó là:
Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ
thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống không phù hợp với
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về
mặt vật chất đối với quyết định của mình. Các đơn vị cơ sở vừa không có quyền
tự chủ vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh.
Chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế dẫn tới cách
quản lý kinh tế và kế hoạch hàng hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản
phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức,
không ràng buộc trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử dụng tiền vốn
tài sản vật tư lao động tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng
lao động.
Cơ chế đó đẻ ra bộ máy quản lý rất công kềnh, có nhiều cấp trung gian và
kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý không theo
nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
2 - Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới
Trước sự cần thiết phải đổi mới như trên tại Đại hội VI với tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật nói rõ sự thật” Đảng và nhà nước Việt
Nam đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh
doanh XHCN. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá
nền kinh tế quốc dân đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh
tế phải so sánh chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng. Phải vận dụng tổng hợp
các quy luật kinh tế cơ chế cơ bản cùng với các qui luật đặc thù khác của chủ
nghĩa xã hội. Nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ
yếu. Và kết quả từ khi đổi mới tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần
được cải thiện sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy lòng tin
của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên. Tình hình lương thực thực phẩm có
chuyển biến tốt từ chỗ thiéu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn
tấn gạo thì nay đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất
khẩu. Hàng hoá trên thị trường nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu
thông tườn đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn trước
về qui mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 493 triệu rúp và 384 triệu đô la năm
1986 lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đo la năm 1990. Đã giảm được khá lớn mức
độ nhập siêu so với trước đây. Phát huy những thành tựu đó đến Đại Hội VII
Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình
thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước” mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hứu
đều tự chủ kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Kết quả qua 10 năm đổi mới (1986 -1996) nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội. Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực. Nó chẳng những
không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển
đất nước theo con đường XHCN. Do đó trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch
phát triển kinh tế tại Đại hội VIII tiếp tục khẳng định “Từ nay đến năm 2000 tiếp
tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN”.
3 - Cơ chế thị trường và những ưu khuyết của nó:
a - Cơ chế thị trường:
- Khái niệm: Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá
do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết 3 vấn
đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì như thế nào và cho ai.
b - Ưu khuyết của cơ chế thị trường:
- Ưu điểm:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ, Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế.
Cơ chế thị trường với cạnh tranh tự do buộc những người sản xuất phải
giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng
kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu
của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn hàng vạn loại sản phẩm khác
nhau. Những nhiệm vụ này nếu nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng
công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc
ra các quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn nhà nước và có khả năng thích nghi cao
hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với
nhu cầu xã hội.
Như vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoà gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu
dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng
hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi
nhuận cao do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương
thức nào, bằng công nghệ nào được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người
sản xuất hàng hoá. Cách dùng duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh
được về giá cả và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối
thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là
tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay
là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định
bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất.