Luận văn Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phòng chống cháy rừng tại rừng trồng thông ba lá (pinus kesia r) ở huyện lăk - Tỉnh Đăk Lăk

Những công trình nghiên cứu về dự báo cháy rừng ñã ñược một số nhà khoa học tiến hành từ những năm ñầu của thế kỷ XX tại các nước có nền kinh tế và lâm nghiệp phát triển như Mỹ, Thụy Điển, Australia, Pháp, Canada, Nga, Đức Ở những nước này, việc xác ñịnh mức ñộ nguy hiểm của cháy rừng từng ngày ñã trở thành một phương thức quản lýcháy rừng không thể thiếu ñược [5]. Tùy ở mỗi nước, trong những giai ñoạn cụ thể có những phương pháp và hệ thống cháy rừng khác nhau, song nhìn chung các hệ thống và phương pháp này ñều dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa các yếu tố khí tượng với nguồn vật liệu cháy hoặc quan hệ giữa các yếu tố khí tượng với khả năng phát sinh cháy rừng thông qua số vụ cháy rừng xảy ra trong nhiều năm liên tục. Ở Mỹ, từ năm 1914, E.A. Beal và C.B. Show ñã nghiên cứu và xác ñịnh khả năng cháy rừng thông qua việc xác ñịnh ñộ ẩm của lớp thảm mục. Các tác giả ñã nhận ñịnh rằng ñộ ẩm của lớp thảm mục thể hiện mức ñộ khô hạn của rừng. Độ khô hạn càng cao, khả năng xuất hiện cháy rừng càng dễ xảy ra,[5],[31]. Tiếp sau ñó, nhiều nhà khoa học khác ñã nghiên cứuvà ñưa ra những thang cấp và mức ñộ nguy hiểm của cháy rừng trên cơsở quan sát mức ñộ ẩm ướt của lớp thảm mục rừng và tiến hành thí nghiệm ñể ñánh giá khả năng bắt lửa của nó.

pdf160 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 3889 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phòng chống cháy rừng tại rừng trồng thông ba lá (pinus kesia r) ở huyện lăk - Tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN ----------------- NGUYỄN VIỆT ÁNH TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG CHÁY RỪNG TẠI RỪNG TRỒNG THÔNG BA LÁ (Pinus kesia R) Ở HUYỆN LĂK - TỈNH ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP MÃ NGÀNH: 60.62.60 Buôn Ma Thuột, năm 2009 i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN ---------------- NGUYỄN VIỆT ÁNH TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG CHÁY RỪNG TẠI RỪNG TRỒNG THÔNG BA LÁ (Pinus kesia R) Ở HUYỆN LĂK - TỈNH ĐĂK LĂK CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN THANH Buôn Ma Thuột, năm 2009 i 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là tài nguyên vô cùng quý báu và có giá trị to lớn nhiều mặt đối với nền kinh tế của đất nước. Việc quản lý bảo vệ và phát triển vốn rừng là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Những năm gần đây rừng tự nhiên nước ta nói chung, rừng trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk nói riêng, không những bị suy giảm về số lượng mà chất lượng cũng bị giảm sút do việc chặt phá rừng làm nương rẫy, khai thác rừng bừa bãi không theo quy hoạch, nạn cháy rừng thường xuyên xảy ra đã dẫn đến tình trạng diện tích rừng bị thu hẹp, tình trạng hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra đã ảnh hưởng rất lớn đến diện tích rừng. Để nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi trọc cần tiến hành đẩy nhanh các biện pháp trồng rừng, quản lý bảo vệ tốt vốn rừng hiện có. Việc đầu tư trồng rừng rất tốn kém mất nhiều thời gian và công sức, việc chăm sóc quản lý bảo vệ, phòng chống cháy rừng lại càng khó khăn hơn. Ở nước ta nói chung và tỉnh Đăk Lăk nói riêng hàng năm vào mùa khô thường xảy ra các vụ cháy rừng tự nhiên, rừng trồng gây thiệt hại rất nghiêm trọng. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính từ năm 1964 - 1994 cháy rừng đã thiêu huỷ gần một triệu ha rừng và bãi cỏ cây bụi, [31]. Thống kê của Cục Kiểm Lâm thì năm 2005 tại Đăk Lăk đã xảy ra 14 vụ làm thiệt hại 52,4ha rừng trồng; năm 2007 cháy 2,25ha rừng tự nhiên, năm 2008 đã xảy ra 2 vụ cháy rừng làm thiệt hại 21,06ha rừng tự nhiên [12]. Thực tế cho thấy, cháy rừng rất nguy hiểm, đặc biệt là những khu rừng trồng thuần loài với những loài cây có chứa dầu như: Thông, Keo lá tràm, Bạch đàn, tre nứa Thông ba lá là loài cây được trồng thuần loài phổ biến tại Đăk Lăk. Thông là loài cây chứa nhiều hàm lượng nhựa, do đó rất dễ bị cháy, lửa lan rất nhanh, ngọn lửa bùng cao khó dập tắt nên gây nhiều thiệt hại. Từ đó cho thấy 2 phòng cháy chữa cháy rừng là vấn đề đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý bảo vệ rừng Thông tại địa bàn Đăk Lăk. Tại huyện Lăk, tổng diện tích rừng hiện có trên toàn huyện là: 95.695ha, trong đó: rừng đặc dụng là 58.095,5ha, rừng phòng hộ là 15.194,7ha, rừng sản xuất là 22.404,8ha. Rừng sản xuất bao gồm 19.802,9 ha là rừng tự nhiên sản xuất, 2.601,9 ha rừng trồng các loại. Trong số 2.601,9ha rừng trồng thì diện tích rừng Thông là 1.945,9ha, tập trung chủ yếu tại 03 khu vực là Liên Sơn 310,5ha, Đăk Phơi 60ha, Krông Nô 1.575,4ha và 656ha là rừng Keo các loại. Rừng Thông xã Krông Nô chiếm 60,54% diện tích rừng trồng của toàn huyện, Đăk Phơi chiếm 2.31%, Liên Sơn 11,93%. [1],[16],[26]. Tình hình cháy rừng xảy ra trên địa bàn huyện Lăk những năm gần đây rất nghiêm trọng, gây thiệt hại vốn đầu tư và ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái. Cụ thể như sau: Khu vực rừng Thông ba lá của Xí nghiệp nguyên liệu giấy Đăk Lăk tại xã Krông Nô năm 2003 đã xảy ra cháy rừng gây thiệt hại hoàn toàn 3,6ha rừng Thông trồng năm 2001. Nguyên nhân xảy ra cháy là do trẻ em chăn trâu đốt lửa nướng cá đã làm cháy lan từ rừng tự nhiên vào rừng trồng. Năm 2004, một số hộ dân đồng bào dân tộc sống gần khu vực rừng trồng đốt nương làm rẫy đã làm cháy lan từ rẫy vào rừng trồng làm thiệt hại hoàn toàn 1,8ha rừng Thông trồng năm 2002. Từ năm 2005 đến nay liên tục xảy ra các vụ cháy rừng tự nhiên giáp khu vực rừng trồng của Xí nghiệp nguyên liệu giấy Đăk Lăk nhưng đã được cán bộ và lực lượng bảo vệ rừng của Xí nghiệp phát hiện và dập tắt kịp thời không cháy lan vào rừng trồng. Theo hồ sơ cháy rừng Hạt kiểm lâm huyện Lăk thì các vụ cháy rừng xảy ra trên địa bàn của huyện nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng đốt nương làm rẫy làm cháy rừng tự nhiên và cháy lan vào các khu rừng trồng, ngoài ra một số vụ cháy rừng có nguyên nhân gây ra cháy là do trẻ em, học sinh khi chăn 3 trâu đã đốt lửa bắt chim, lấy ong mật gây cháy rừng. Cháy rừng là do nhận thức của người dân trong việc phòng chống cháy rừng chưa cao, như trẻ em chăn trâu, đốt củi lấy than... làm cháy lan vào rừng trồng. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk nói chung và huyện Lăk nói riêng chưa có công trình nào nghiên cứu các biện pháp phòng chống cháy rừng cho các đối tượng cây trồng một cách đầy đủ và có hiệu quả, đặc biệt là rừng Thông trồng thuần loài. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố có liên quan nhiều đến cháy rừng để từ đó xây dựng các biện pháp phòng chống cháy rừng có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý bảo vệ và phòng chống cháy rừng. Xuất phát từ các ý nghĩa trên, đồng thời để giúp cho các đơn vị trồng rừng trên địa bàn huyện chủ động trong công tác phòng chống cháy rừng, hạn chế số vụ cháy và thiệt hại do cháy rừng gây ra, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phòng chống cháy rừng tại rừng trồng Thông ba lá (Pinus kesia R) ở huyện Lăk - tỉnh Đăk Lăk”. Đề tài sẽ góp phần làm cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác phòng chống cháy rừng Thông ba lá trồng thuần loài tại huyện Lăk và một số nơi có điều kiện tương tự. Ngoài ra, đề tài còn là tài liệu tham khảo cho các đơn vị trồng rừng sản xuất nói chung và rừng Thông nói riêng. Do thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nguyên nhân cháy rừng Thông ba lá và xây dựng các biện pháp phòng chống cháy rừng tại các khu vực rừng Thông ba lá thuần loài trồng tập trung với diện tích lớn tại 03 đơn vị trên địa bàn huyện đó là rừng Thông của Xí nghiệp nguyên liệu giấy Đăk Lăk tại xã Krông Nô, Công ty Lâm nghiệp huyện Lăk tại xã Đăk Phơi và Ban Quản lý rừng Văn Hóa - Lịch Sử - Môi Trường hồ Lăk thị trấn Liên Sơn huyện Lăk - Đăk Lăk. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1 Trên thế giới Những công trình nghiên cứu về dự báo cháy rừng đã được một số nhà khoa học tiến hành từ những năm đầu của thế kỷ XX tại các nước có nền kinh tế và lâm nghiệp phát triển như Mỹ, Thụy Điển, Australia, Pháp, Canada, Nga, ĐứcỞ những nước này, việc xác định mức độ nguy hiểm của cháy rừng từng ngày đã trở thành một phương thức quản lý cháy rừng không thể thiếu được [5]. Tùy ở mỗi nước, trong những giai đoạn cụ thể có những phương pháp và hệ thống cháy rừng khác nhau, song nhìn chung các hệ thống và phương pháp này đều dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa các yếu tố khí tượng với nguồn vật liệu cháy hoặc quan hệ giữa các yếu tố khí tượng với khả năng phát sinh cháy rừng thông qua số vụ cháy rừng xảy ra trong nhiều năm liên tục. Ở Mỹ, từ năm 1914, E.A. Beal và C.B. Show đã nghiên cứu và xác định khả năng cháy rừng thông qua việc xác định độ ẩm của lớp thảm mục. Các tác giả đã nhận định rằng độ ẩm của lớp thảm mục thể hiện mức độ khô hạn của rừng. Độ khô hạn càng cao, khả năng xuất hiện cháy rừng càng dễ xảy ra,[5],[31]. Tiếp sau đó, nhiều nhà khoa học khác đã nghiên cứu và đưa ra những thang cấp và mức độ nguy hiểm của cháy rừng trên cơ sở quan sát mức độ ẩm ướt của lớp thảm mục rừng và tiến hành thí nghiệm để đánh giá khả năng bắt lửa của nó. Từ năm 1978 đến nay, qua nhiều nghiên cứu cải tiến, các nhà khoa học Mỹ đã đưa ra được hệ thống dự báo cháy rừng tương đối hoàn thiện. Theo hệ thống này có thể dự báo cháy rừng cho nhiều loại vật liệu cháy khác nhau trên cơ sở phân ra các mô hình vật liệu, đồng thời căn cứ vào số liệu quan trắc các 5 yếu tố thời tiết, độ ẩm vật liệu cháy ở các cấp, kết hợp với yếu tố địa hình để dự báo khả năng xảy ra cháy rừng và dự đoán mức độ nguy hiểm của các đám cháy nếu xảy ra [31]. Ở Canada, việc nghiên cứu xây dựng hệ thống đánh giá mức độ nguy hiểm của cháy rừng được tiến hành từ những năm 20 của thế kỷ XX. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa thời tiết và độ ẩm vật liệu cháy nhằm phát triển một phương pháp dự báo mức độ nguy hiểm của lửa rừng đã được bắt đầu năm 1929 tại khu thực nghiệm rừng ở thung lũng Offarra do T.G.Wright thực hiện. Ông đã cho xuất bản hệ thống bảng biểu đầu tiên để dự báo mức độ nguy hiểm của lửa rừng cho Canada năm 1933. Hệ thống bảng biểu này được xây dựng dựa trên cơ sở kết quả của những nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố thời tiết với độ ẩm của vật liệu trong mùa cháy rừng và mức độ thiệt hại do lửa rừng gây nên. Các số liệu được thu thập trong nhiều mùa cháy. Hệ thống đó đã được một số nước khác như Tây Ban Nha, Mêhicô, Veneduela, Achentina, Chilê triển khai thực hiện [31]. Ở Australia, hiện đang tồn tại một số hệ thống xác định mức độ nguy hiểm của cháy rừng, nhưng hệ thống do Mc.Arthur xây dựng (1966, 1979) được sử dụng là phổ biến nhất. Hệ thống này được xây dựng dựa trên số liệu thu thập qua nhiều lần đốt thử nghiệm các loại vật liệu cháy trong những điều kiện thời tiết khác nhau và trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tế. Ở Thụy điển, công tác dự báo cháy rừng cũng dựa trên cơ sở các chỉ tiêu khí tượng, thông qua chỉ số Angstrom (I) [31]. I = ( ) 10 27 20 TR + + (1.1) Trong đó: I: là chỉ số Angstrom để xác định mức độ nguy hiểm của cháy rừng. R: là Độ ẩm không khí thấp nhất trong ngày (%). 6 T: nhiệt độ không khí cao nhất trong ngày (0C). Sau khi tính toán được chỉ số I theo công thức trên, tiến hành phân mức nguy cơ cháy rừng theo các cấp như bảng 1.1. Phương pháp dự báo này không tính tới ảnh hưởng của nhân tố lượng mưa, thời gian mưa và gió, chưa phản ánh rõ nét mối quan hệ giữa độ ẩm không khí với độ ẩm của vật liệu cháy. Tuy nhiên, do cách sử dụng đơn giản nên phương pháp dự báo cháy rừng theo chỉ số Angstrom vẫn được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc bán đảo Scandinavia, Bồ Đào Nha và một số nước từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha. Bảng 1.1. Phân cấp nguy cơ cháy rừng theo chỉ số I Cấp cháy Chỉ số I Mức nguy cơ cháy rừng I I > 4,0 Không có khả năng cháy rừng II 2,5 ≤ I < 4,0 Ít có khả năng cháy rừng III 2,0 ≤ I < 2,5 Khả năng cháy rừng trung bình IV I < 2,0 Có nhiều khả năng cháy rừng Ở Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, vấn đề dự báo cháy rừng cũng được bắt đầu từ rất sớm. Nhiều phương pháp dự báo đã được nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng. Điển hình là những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học như: E.V.Valendic (1924), V.G.Nesterov (1939), I.C.Melekhov (1948), C.P.Arxubasev (1957). Song được sử dụng rộng rãi nhất là phương pháp dự báo cháy rừng thông qua chỉ tiêu tổng hợp P do V.G.Nesterov đưa ra từ năm 1939 [31]. Theo V.G. Nesterov, chỉ tiêu tổng hợp P là tổng của tích số giữa nhiệt độ không khí và độ chênh lệch bảo hòa độ ẩm không khí lúc 13h (giờ địa phương) của tất cả những ngày không mưa hoặc có mưa dưới 3mm kể từ sau ngày mưa cuối cùng mà có lượng mưa lớn hơn 3mm. Công thức để xác định chỉ tiêu tổng hợp P như sau: 7 P = 13 1 13 .diti n t ∑ = (1.2) Trong đó: P – chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức nguy cơ xảy ra cháy rừng; ti13 – nhiệt độ không khí lúc 13h ( 0C); di13 – độ chênh lệch bão hòa độ ẩm không khí lúc 13h (mb); n – số ngày không mưa hoặc mưa dưới 3mm Từ chỉ tiêu P có thể xây dựng được các cấp dự báo mức độ nguy hiểm cháy rừng cho các địa phương khác nhau. Cơ sở của việc phân cấp cháy này là dựa vào mối quan hệ giữa chỉ tiêu P với số vụ cháy rừng ở địa phương đó trong nhiều năm (10 đến 15 năm liên tục). Năm 1973, T.O. Stoliartsuk đã tiến hành nghiên cứu áp dụng phương pháp dự báo cháy rừng của Trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia Liên Xô và đề nghị xác định hệ số K theo lượng mưa trong ngày, cụ thể là: Lượng mưa (mm): 0 0,1–0,9 1–2,9 3–5,9 6–14,9 15–19,9 >20 Hệ số K: 1 0,8 0,6 0,4 0,2 0,1 0 Với hệ số K xác định theo lượng mưa ngày và áp dụng công thức tính được chỉ tiêu P, từ đó phân mức nguy hiểm của cháy rừng thành 5 cấp như bảng 1.2. Bảng 1.2. Phân cấp mức độ nguy hiểm của cháy rừng theo chỉ tiêu P Cấp Chỉ tiêu tổng hợp P Mức độ nguy hiểm của cháy rừng DBCR Theo Nesterov Theo TMU I ≤ 300 ≤ 200 Không nguy hiểm II 301 – 500 201 – 450 Ít nguy hiểm III 501 – 1000 451 – 900 Nguy hiểm IV 1001 – 4000 901 – 2000 Rất nguy hiểm V > 4000 > 2000 Cực kỳ nguy hiểm 8 Phương pháp dự báo cháy rừng theo chỉ tiêu tổng hợp P được áp dụng ở các nước như Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc từ những năm 60. Khi áp dụng cũng có những cải tiến để phù hợp với điều kiện khí hậu và loại hình rừng của mỗi nước. Năm 1918, Weitmann đã xác định được mối quan hệ chặt chẽ giữa hàm lượng nước trong vật liệu cháy là thảm khô, thảm mục và cỏ dại với khả năng phát sinh cháy rừng. Trên cơ sở đó đã đưa ra bảng phân cấp mức độ nguy hiểm của nạn cháy rừng theo hàm lượng nước chứa trong vật liệu cháy như bảng 1.3,[5],[31]. Bảng1.3: Hàm lượng nước trong vật liệu cháy và mức độ nguy hiểm cháy rừng: Cấp cháy Hàm lượng nước(%) Mức độ nguy hiểm của cháy rừng I >25 Không phát sinh II 15 - 25 Khó phát sinh III 13 – 15 Dễ phát sinh IV 10 - 13 Nguy hiểm V <10 Cực kỳ nguy hiểm Ở Trung quốc, phần lớn những nghiên cứu về dự báo cháy rừng được bắt đầu vào thập kỷ 60 và mới thật sự được chú trọng từ những năm 80, nhưng đến nay đã đạt được kết quả tốt. Trên cơ sở tham khảo một số mô hình dự báo cháy rừng của Nga, Mỹ, Nhật Bản và một số nước khác, kết hợp với những nghiên cứu cụ thể, các chuyên gia đã tiến hành lập biểu cấp cháy cho từng địa phương dựa trên chỉ tiêu bén lửa và chỉ tiêu lan tràn [5]. Đặc biệt, để có cơ sở khoa học cho việc xác định cấp cháy rừng ở vùng Đông Trung Quốc, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu mỗi quan hệ 9 giữa hàm lượng nước của vật liệu cháy với các yếu tố khí tượng. Vật liệu cháy được phân làm hai loại khô và tươi với các kích cỡ khác nhau. Nghiên cứu được tiến hành ở một số loại hình rừng chủ yếu tại khu vực Đông Bắc. Các nhân tố được nghiên cứu bao gồm: nhiệt độ không khí, độ ẩm không khí, tốc độ gió, lượng mưa, số ngày không mưa và lượng bốc hơi. Qua nghiên cứu các tác giả đi đến kết luận hàm lượng nước của vật liệu cháy cỡ nhỏ (đường kính < 0,6cm) có mối quan hệ chặt chẽ nhất với các nhân tố khí tượng và họ cho rằng để dự báo cấp nguy hiểm của cháy rừng, trước hết cần phải tiến hành dự báo độ ẩm của vật liệu cháy ở trong rừng. Từ những tài liệu nêu trên có thể thấy rằng những nghiên cứu về dự báo cháy rừng được bắt đầu và từng bước hoàn thiện chủ yếu ở các nước châu Âu, Mỹ, Canada và Australia. Nhìn chung trong những năm đầu, nhiều nghiên cứu còn mang tính chất định tính và mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát, mô tả một số yếu tố thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm không khí, từ đó đưa ra những nhận xét về khả năng có thể xảy ra cháy rừng. Tuy chưa đưa ra các công thức toán học để dự báo cháy rừng một cách định lượng, nhưng các nghiên cứu trên cũng đã góp phần mở đường cho những phương pháp dự báo được xây dựng sau này hoàn chỉnh hơn. Từ những năm thuộc thập kỷ 20, lĩnh vực dự báo cháy rừng có chuyển biến mạnh. Các công trình nghiên cứu về phương pháp dự báo cháy rừng của nhiều nước đã đưa ra được các thang cấp dự báo khả năng xuất hiện cháy rừng trong mối quan hệ giữa độ ẩm vật liệu cháy với các yếu tố khí tượng có ảnh hưởng tới quá trình cháy rừng. Trong đó, một số phương pháp đã được nghiên cứu để áp dụng cho từng loại rừng, từng loại vật liệu cháy cụ thể, đồng thời có tính đến ảnh hưởng của yếu tố địa hình. Đặc biệt trong những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các mô hình của dự báo cháy rừng được đưa vào lập trình trên máy 10 vi tính, việc sử dụng chúng trở nên đơn giản và tiện lợi, góp phần dự báo cháy rừng nhanh chóng và hiệu quả hơn. 1.2 Trong nước Những nghiên cứu về dự báo cháy rừng ở nước ta bắt đầu được tiến hành từ năm 1981 và chủ yếu theo hướng nghiên cứu áp dụng phương pháp dự báo theo chỉ tiêu tổng hợp của V.G.Nesterov [31]. Năm 1988, Phạm Ngọc Hưng đã áp dụng phương pháp này trên cơ sở nghiên cứu cải tiến hệ số điều chỉnh K theo lượng mưa ngày a để tính toán xây dựng cấp dự báo cháy rừng thông cho tỉnh Quảng Ninh [31],[34] với công thức như sau: P = k. 13 1 13 .diti n t ∑ = (1.3) Trong đó: P- Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá nguy cơ cháy rừng; Ti - Nhiệt độ không khí lúc 13h (0C); di – Độ chênh lệch bão hòa độ ẩm không khí lúc 13 giờ(mb); n – Số ngày không mưa hoặc mưa < 5mm; k – hệ số điều chỉnh theo lượng mưa ngày a, k có hai giá trị: k = 0 khi a > 5mm k = 1 khi a < 5mm. Sau đó tác giả căn cứ vào số vụ cháy rừng thống kê trong nhiều năm để chỉnh lý phân cấp cháy rừng ở Quảng Ninh như bảng 1.4. Bảng 1.4. Phân cấp cháy rừng Thông theo chỉ tiêu P (Quảng Ninh) Cấp cháy Chỉ tiêu tổng hợp P Khả năng cháy rừng I < 1000 Ít có khả năng cháy rừng II 1001- 2500 Có khả năng cháy rừng III 2501- 5000 Có khả năng cháy rừng nhiều IV 5001- 10000 Nguy hiểm về cháy rừng V >10000 Cực kỳ nguy hiểm đối với cháy rừng 11 Phương pháp dự báo cháy rừng theo chỉ tiêu tổng hợp hiện nay đang được áp dụng rộng rãi trên quy mô cả nước [ 31]. Qua nghiên cứu, tác giả cũng nhận thấy rằng giữa chỉ tiêu tổng hợp P và số ngày không mưa (hoặc có mưa dưới 5mm) liên tục có mối quan hệ chặt chẽ với hệ số tương quan > 0,9. Do đó có thể giúp cho việc dự báo ở cơ sở được tiện lợi hơn, tác giả đã đưa ra phương pháp dự báo cháy rừng dựa vào số ngày khô hạn liên tục với công thức như sau: Hi = K. (Hi-1+1) (1.4) Hoặc Hi = K. (Hi-1+n) (1.5) Trong đó: Hi – Số ngày khô hạn liên tục tính đến ngày dự báo; Hi-1 - Số ngày khô hạn liên tục tính đến trước ngày dự báo; n - Số ngày liên tục không mưa hoặc mưa <5mm của đợt dự báo; K - Hệ số điều chỉnh theo ngày mưa ngày như ở công thức 1.5. Công thức (4) dùng để dự báo cháy rừng cho từng ngày, còn công thức (5) có thể dự báo cháy rừng cho nhiều ngày (thường trong khoảng 5-10 ngày). Sau khi tính được giá trị Hi, tiến hành phân cấp dự báo cháy rừng theo bảng đã lập sẵn cho địa phương trong 6 tháng mùa cháy. Từ 1989 đến 1991, tổ chức UNDP đã hỗ trợ dự án tăng cường khả năng phòng cháy chữa cháy rừng tại Việt Nam. A.N.Cooper, chuyên gia về đánh giá mức độ nguy hiểm cháy rừng của FAO đã cùng các chuyên gia Việt Nam nghiên cứu, soạn thảo phương pháp dự báo cháy rừng theo chỉ tiêu tổng hợp của V.G.Nesterov nhưng có bổ sung thêm yếu tố gió [5],[31]. A.N.Cooper cho rằng, đối với nhiều vùng ở Việt Nam, gió có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của đám cháy rừng. Do vậy, ông đã đề nghị sử dụng phương pháp của V.G.Nesterov nhưng cần phải tính tới tốc độ gió. Tốc độ gió được đo vào thời điểm 13 giờ ở độ cao 10-12m so với mặt đất. Sau khi tính chỉ tiêu P, tiến hành nhân thêm với hệ số gió như sau: 12 Khi tốc độ gió là 0 - 4km/h Px 1 Khi tốc độ gió từ 5 - 15km/h Px 1,5 Khi tốc độ gió từ 16 - 25km/h Px 2 Khi tốc độ gió lớn hơn 25km/h Px 3 Theo tính toán của Cooper thì giá trị P mới (Pm) cho Việt Nam sẽ có giá trị thấp hơn là 4000, giá trị cao nhất trên 30 000 và ông phân cấp dự báo cháy rừng ở Việt Nam thành 4 cấp như ở bảng 1.5. Bảng 1.5. Phân cấp cháy rừng theo chỉ tiêu Pm Cấp cháy Đặc trưng của cấp cháy Chỉ số Pm Chỉ thị theo màu I Có nguy hiểm cháy thấp 0-4000 Xanh II Có nguy hiểm cháy trung bình 4001-12000 Vàng III Có nguy hiểm cháy cao 12001-30000 Da cam IV Có nguy hiểm cháy rất cao >30000 Đỏ Tuy nhiên cho đến nay đề nghị này vẫn còn đang được nghiên cứu và tiếp tục thử nghiệm. Ở Bình Thuận, sau 3 năm (1991-1993) áp dụn
Luận văn liên quan