Trong nền thơ đa dạng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Ngô Kha là một
nhà thơ độc đáo và có số phận bi kịch. Thơ ông kết hợp tư tưởng yêu nước và
tư tưởng hiện sinh, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa siêu thực. Sự nghiệp văn
học của ông đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu, phê bình;
nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên, ở TP Hồ Chí Minh, một sinh viên chọn “Thế
giới nghệ thuật thơ Ngô Kha” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Với
những cố gắng và kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Mỹ Hiền, khoá
luận này được Hội đồng chấm thi đánh giá xuất sắc. Chúng tôi xin giới thiệu
một phần trong chương ba của khoá luận.
V. Bêlinxki từng nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới
riêng, mà khi đi vào đó ta buộc phải sống theo các qui luật của nó, hít thở
không khí của nó”. Người nghệ sĩ lúc bấy giờ đóng vai trò một kiến trúc sư,
đồng thời cũng là người đi xây dựng công trình của mình. Người đọc, để đến
được và sống trọn với thế giới ấy, phải vượt qua rất nhiều thử thách để thâm
nhập một cách trọn vẹn. Đi vào tìm hiểu nghệ thuật sáng tác được ví như
hành động đi qua cánh cửa cuối cùng mà người viết dày công sắp xếp để lĩnh
hội hết ý nghĩa mà tác phẩm nghệ thuật mang lại. Đối với Ngô Kha, việc
vượt qua cánh cửa này sẽ giúp chúng ta thấy được tư tưởng cốt lõi, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt làm nên hành trình nghệ thuật của nhà thơ mà những vòng xe dẫn
ta đi trọn hành trình đó không gì nổi bật hơn là thế giới trường ca và thơ tự do
của ông.
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2136 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ngô Kha: Trường ca và thơ tự do, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Ngô Kha: trường
ca và thơ tự do
Trong nền thơ đa dạng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Ngô Kha là một
nhà thơ độc đáo và có số phận bi kịch. Thơ ông kết hợp tư tưởng yêu nước và
tư tưởng hiện sinh, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa siêu thực. Sự nghiệp văn
học của ông đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu, phê bình;
nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên, ở TP Hồ Chí Minh, một sinh viên chọn “Thế
giới nghệ thuật thơ Ngô Kha” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Với
những cố gắng và kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Mỹ Hiền, khoá
luận này được Hội đồng chấm thi đánh giá xuất sắc. Chúng tôi xin giới thiệu
một phần trong chương ba của khoá luận.
V. Bêlinxki từng nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới
riêng, mà khi đi vào đó ta buộc phải sống theo các qui luật của nó, hít thở
không khí của nó”. Người nghệ sĩ lúc bấy giờ đóng vai trò một kiến trúc sư,
đồng thời cũng là người đi xây dựng công trình của mình. Người đọc, để đến
được và sống trọn với thế giới ấy, phải vượt qua rất nhiều thử thách để thâm
nhập một cách trọn vẹn. Đi vào tìm hiểu nghệ thuật sáng tác được ví như
hành động đi qua cánh cửa cuối cùng mà người viết dày công sắp xếp để lĩnh
hội hết ý nghĩa mà tác phẩm nghệ thuật mang lại. Đối với Ngô Kha, việc
vượt qua cánh cửa này sẽ giúp chúng ta thấy được tư tưởng cốt lõi, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt làm nên hành trình nghệ thuật của nhà thơ mà những vòng xe dẫn
ta đi trọn hành trình đó không gì nổi bật hơn là thế giới trường ca và thơ tự do
của ông.
3.1. Ngô Kha – nhà thơ dấn thân
Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên
thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế
ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 -
1959), tốt nghiệp Cử nhân luật khoa (1962), sau đó dạy văn và Giáo dục công
dân ở các trường Quốc học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ
1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.
Năm 1966 (?), ông bị động viên vào trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức ([1]),
đóng quân ở miền Nam ([2]) một thời gian ngắn. Các sự kiện chính trị từ năm
1963 với nhiều cuộc bãi công của công nhân, bãi thị của tiểu thương, biểu
tình của đồng bào Phật tử, sinh viên học sinh liên tục nổ ra nhất là ở Huế, Đà
Nẵng, Sài Gòn đã tác động lớn đến tư tưởng của Ngô Kha. Tiếp thu tư tưởng
từ những phong trào đó, từ năm 1963 Ngô Kha luôn nổi bật trong các hoạt
động sinh viên học sinh ở Huế và các đô thị miền Nam như một người trí
thức yêu nước và một nhà thơ tranh đấu. Ông tham gia vào các phong trào
đấu tranh đô thị từ những ngày tham gia nhóm “Quán Bạn” với Trần Quang
Long, “Tuyệt tình cốc” với anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan. Năm 1964 địch đàn áp nhóm Quán Bạn, cùng với nhà thơ Trần
Quang Long, Ngô Kha cũng bị bắt giam. Năm 1966, giữa phong trào chống
Mỹ - Thiệu – Kỳ ở Huế Ngô Kha tham gia tổ chức chiến đoàn Nguyễn Đại
Thức ([3]) – một đơn vị quân đội Sài Gòn ly khai chống lại Thiệu – Kỳ, chốt
chặn với lính thủy quân lục chiến nhiều ngày ở đèo Hải Vân. Chiến lược thất
bại, một lần nữa ông bị vào tù, lần này Ngô Kha bị đày ra Phú Quốc một thời
gian.
Bước vào những năm 70, khi phong trào đô thị bùng phát dữ dội ở cả
Sài Gòn và Huế, ngoài công việc giảng dạy, Ngô Kha có mặt trong hầu hết
các phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên. Từ 1970 trở đi, ông chủ biên
tập san Tự Quyết của văn nghệ sĩ và trí thức Huế (cùng với Trịnh Công Sơn,
Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San, Trần Viết Ngạc…). Ông cũng hay
có sáng tác in trên các báo, tạp chí in và xuất bản trước 1975 như Mai, Trình
Bầy, Đối Diện, Đất Nước, Hướng Đi, Tin Tưởng, Mặt Trận Văn Hóa…
Từ việc thành lập nhóm đấu tranh Tự Quyết, xuất bản 2 số báo đến việc
thành lập Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung (1972), thầy giáo, nhà thơ,
chiến sĩ Ngô Kha bây giờ nhập làm một. Ông xuất hiện như một ngọn cờ hô
hào bãi khóa, xuống đường và khởi thảo các bản tuyên ngôn tuyên chiến với
chính quyền Sài Gòn. Càng về sau Ngô Kha càng tỏ rõ quan điểm của mình,
ông cùng các trí thức văn nghệ sĩ Huế chính thức ủng hộ tuyên bố 7 điểm của
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Năm 1972,
Ngô Kha bị bắt và đưa ra xét xử trước Tòa án Quân sự Đà Nẵng nhưng được
trắng án vì không có cơ sở buộc tội cũng như gặp sự phản đối quyết liệt của
sinh viên học sinh cùng các lực lượng tiến bộ ở Huế và miền Nam.([4]) Trong
khoảng thời gian từ 1972 trở đi, tình hình an ninh của Ngô Kha ngày càng bị
đe dọa. Đầu năm 1973, Hiệp định Paris vừa ký kết nhằm chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở miền Nam, không khí chính trị ở Huế vô cùng căng
thẳng. Tổ chức định đưa Ngô Kha vào vùng giải phóng để đảm bảo an toàn
nhưng ông từ chối. Trong những ngày tháng dữ dội ấy, ông phải vào lánh
trong phòng kín của tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Huế ([5]), ban đêm mới ra
ngoài gặp bạn bè, anh em và luận bàn chính trị. Đó có lẽ là những ngày tháng
cuối cùng ông được sống và hoạt động trong sự chở che của bạn bè để rồi đến
30/1/1973 Ngô Kha đã ra đi vĩnh viễn về miền cô độc.
Ngày 1-1-1981, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế đã ký giấy
chứng nhận hy sinh số 153 và đề nghị Nhà nước truy phong liệt sĩ cho nhà
thơ, nhà giáo Ngô Kha. Đến 3-11-1981 Nhà nước đã cấp bằng công nhận liệt
sĩ cho ông.
Ngoài vai trò một thầy giáo, một người đấu tranh trong các phong trào
yêu nước, Ngô Kha còn là nhà thơ có bút pháp độc đáo. Cho đến nay, khi
nhìn lại toàn bộ sự nghiệp thơ ca, ta thấy Ngô Kha có một điểm vô cùng nổi
bật: Ông là một trong số ít những nhà thơ miền Nam lúc bấy giờ hòa nhập
vào dòng thơ siêu thực. Các tác phẩm ấy tuy đương thời không được nói đến
nhiều (vì lý do thời cuộc), nhưng có thể nói Hoa cô độc và Ngụ ngôn của
người đãng trí là hai tập thơ đáng nhớ nhất khi nhắc đến Ngô Kha. Ngoài ra,
nhà thơ còn có Trường ca hòa bình và một số bài thơ khác in rải rác trên các
tạp chí miền Nam.
Như đóa hoa nở giữa sa mạc, người trí thức Ngô Kha - thầy giáo dạy
văn trường Quốc học và các trường khác ở Huế ngày ấy đã tạo ra tiếng nói
riêng trong các tập thơ của mình. Trong không khí ồn ào nóng bỏng của thời
cuộc, năm 1961 Ngô Kha cho ra đời Hoa cô độc như bước đánh dấu cho sự
nghiệp thơ ca. Tập thơ tập hợp một số bài thơ tình lãng mạn, dần có xu
hướng siêu thực. Hoa cô độc gồm các bài thơ như Đêm 30, Có gì đẹp hơn yêu
em, Người con trai, Tiễn em, Ưu tư, Khúc ca tình yêu…. ([6]) . Nó cho thấy trái
tim tươi nguyên của chàng thanh niên còn nhiều hy vọng ở cuộc đời. Những
vần thơ tuy có hơi hướng siêu thực nhưng vẫn còn đó cái trong sáng, nhẹ
nhàng và hết lòng với cuộc sống. Tuy vậy tập thơ cũng cho thấy dự cảm về
một trái tim rạn vỡ, một chút u tối trong tâm hồn khi độ nhạy cảm của thi
nhân không ngừng báo trước cho anh. Tìm đến thế giới siêu thực, Ngô Kha
xem đó là cách thể nghiệm sự suy nghĩ, hòa trộn giữa thực và mộng, nhập
vào thế giới mới hơn để tìm ra không gian riêng cho mình.
tôi kẻ điên
trọn đời cuồng dại
tôi chỉ là một kẻ vong thân
khát tình thương chẳng thiết phân trần…
(Ngụ ngôn của người đãng trí)
Cũng từ đây, “tôi là kẻ điên” như một nỗi ám ảnh triền miên khi anh
không thể thoát ra khỏi cái bào ảnh của cuộc đời. Như hạt giống ươm mầm,
năm 1969 ông cho ra đời Ngụ ngôn của người đãng trí, dấu chấm lửng giữa
cuộc đời. Tập thơ làm nên tên tuổi ông với tư cách nhà thơ ngoài vai trò
người thầy giáo trong trường Quốc học. Người trí thức ngày nào giờ đắm
chìm trong thế giới của “người đãng trí” như một cách phản kháng với thực
tại, tìm đến thế giới “siêu thực”. Đúng như ai đó đã từng nói, cuộc sống
không bao giờ dừng lại một chỗ mà là một quá trình. Không thể sống mãi
trong bơ vơ, triền miên trong miền vô định, ông đã làm một cuộc vượt thoát
tinh thần ngoạn mục. Từ Ngụ ngôn của người đãng trí ông cho ra đời Trường
ca hòa bình như lời kêu gọi với chính mình. Có thể nói, lúc bấy giờ Ngô Kha
đã tung ra khỏi cái trận địa ông đã xây cho mình, quyết tâm dấn thân vào các
trận địa đường phố cùng hàng ngàn sinh viên, hòa cùng nhịp đập với dân tộc
một cách công khai. Trong lĩnh vực văn học, nếu trước kia ông gián tiếp thể
hiện tinh thần đó trong những vần thơ siêu thực thì ngày nay, Ngô Kha đã
sáng tạo cả một trường ca dài để kêu gọi mọi người cùng đứng lên giành lại
hòa bình cho dân tộc:
mừng gặp anh em như mới chào đời
ngày Việt Nam khai sinh ngôn ngữ mới
ba mươi triệu đồng bào anh em đứng dậy
như trường sơn hùng vĩ đời đời
hòa bình về trong trái tim người…
(Trường ca hòa bình)
Thoát khỏi khung trời siêu thực, Ngô Kha hòa nhập với thế giới thực
tại, làm mục tiêu cho hành động và lý tưởng. Ngoài Trường ca hòa bình, ta
còn bắt gặp khí thế đó trong các bài thơ như Bài ca tự quyết, Mai có hòa bình
hay Mùa đông chiến tranh ở Huế…
Có thể nói hành trình thơ Ngô Kha là con đường dài liên tục và nhất
quán về lý tưởng, tuy có khác nhau về hình thức biểu hiện. Đó đúng là hành
trình tâm thức của một con người đi từ sự trinh nguyên đến những vực sâu
không cùng của chuỗi suy tư, nhận thức cuộc đời, cũng có những da diết đớn
đau cần thiết nhưng cuối cùng cũng nhận ra được chân lý.
3.2. Trường ca của Ngô Kha
Ngô Kha sáng tác khá nhiều nhưng có một điều đặc biệt là tác giả rất
có duyên với thể loại thơ dài. Ngoài những bài thơ có dung lượng vừa phải in
trong tập Hoa cô độc (1961), hầu hết các bài thơ còn lại đều có dung lượng
khá lớn. Có thể kể đến như Bài ca tự quyết, Mùa đông chiến tranh ở Huế,
Hành trình, Mặc khải, Gió, Mặt trời mọc, Xác ướp… Điều đó cho thấy nhà
thơ có tài năng đặc biệt trong việc diễn đạt nguồn cảm xúc dồi dào của mình.
Tuy nhiên trong phần nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chú ý tìm hiểu trường ca
bởi thiết nghĩ đó là đỉnh cao trong việc thể hiện những cảm xúc dào dạt của
thi nhân, đồng thời cũng cho thấy một điều khá thú vị - Ngô Kha là nhà thơ
miền Nam duy nhất viết trường ca bằng lối cảm nhận siêu thực.
Có thể nói trường ca của Ngô Kha không theo phong cách và đặc điểm
của trường ca truyền thống mà mang trong đó những điểm rất riêng. Chính
ông đã thổi linh hồn vào trường ca và ngược lại nó giúp ông bộc lộ hết tâm
trạng mình. Không phải chỉ một mình trường ca, mà ngay từ đầu Ngô Kha đã
tỏ ra khá phù hợp với những bài thơ dài. Có lẽ thể chất và tâm hồn Ngô Kha
tỏ ra phù hợp với những bài thơ dài chăng? Không phải ngẫu nhiên mà một ai
đó có thể dễ dàng thành công với trường ca. Nói theo Chu Văn Sơn thì “Do
mấu chốt của trường ca là ở chữ “trường”, nên một tác giả trường ca, theo
tôi, ít nhất phải có đủ “tam trường”: trường vốn, trường lực và trường hơi.
Vốn trải nghiệm, vốn tri thức, vốn nhân văn phải dồi dào; năng lực sáng tạo
hình thức trong ngôn ngữ phải sung mãn; và phải nuôi được cảm hứng, cảm
xúc thật bền, không đuối, không hụt, không cụt. “Tam trường” đó phải hiện
ra thành kiểu tư duy trường ca. Không phải ai cũng có tư duy này! Người có
tư duy trường ca thường phải xử lý thật biến hóa mối tương tác giữa những
cặp đối cực sống còn này: cái bi - cái hùng, cái kì ảo - cái hiện thực, cái kì vĩ
- cái đời thường, chính sử - huyền sử, tính tượng trưng - tính tả thực, tính hồn
nhiên - tính tổ chức cao, cả đường bay - từng nhịp vỗ cánh…” ([7])
Và nếu nhìn nhận theo cách đó, có thể nói một hồn thơ như Ngô Kha
không thể không bén duyên với trường ca. Bởi “dòng sống” ([8]) thế kia chỉ
thực sự thoải mái khi thỏa sức trong một hình thức phóng khoáng với một
cấu trúc luôn mở thôi. Trường ca chính là một thể đầy hứa hẹn cho hình thức
ấy, cấu trúc ấy. Đối với Ngô Kha, trường ca trở thành phương tiện đắc lực để
giải tỏa nỗi niềm. Trường ca của ông đậm chất trữ tình, đẩy yếu tố tự sự ra
phía sau. Đó là một dòng chảy lớn, trong bản thân tác giả chứ không chờ đến
sự kiện bên ngoài tác động đến. Điều này cho thấy một trái tim nhạy cảm,
một tạng người vốn rất dạt dào cảm xúc và dường như chỉ có trường ca mới
có thể chứa đựng hết, làm thỏa mãn niềm khát khao bày tỏ của ông.
Lần đầu tiên đến với trường ca của Ngô Kha, người đọc sẽ thấy thú vị
bởi những điều làm nên sự khác biệt đó. Tác giả không hề phân chia rạch ròi
từng ý tưởng và thể hiện nó trong các đề mục mà thay vào đó là cách đánh số
rất bình thường, tự nhiên và giản dị. Cả Trường ca hòa bình và Ngụ ngôn của
người đãng trí đều như thế. Đó cũng là lý do khiến cho độc giả lần đầu tiên
tiếp xúc thơ ông sẽ có ngay những thắc mắc thú vị. Rằng đây có là trường ca
chăng? Điều khiến ta chấp nhận nó là trường ca là ở tính khái quát, rộng lớn
của vấn đề cần phản ánh. Trường ca hòa bình ngoài việc tác giả định danh
ngay từ đầu là trường ca thì ta còn thấy ý nghĩa lớn lao của vấn đề mà Ngô
Kha đặt ra. Còn với Ngụ ngôn của người đãng trí, đó còn là một vấn đề lớn
cần nhận diện và bàn xét lại. Tuy nhiên, trên góc độ nhìn nhận của người
nghiên cứu, có thể xem Ngụ ngôn của người đãng trí là một trường ca ở
những khía cạnh sau:
Đầu tiên, tác phẩm có một kết cấu khá hoàn chỉnh mặc dù được viết
theo lối thơ siêu thực. Xét về dung lượng, tác phẩm có tất cả 786 dòng thơ,
được chia ra 8 phần không đều nhau. Điều đó phần nào cho thấy sự đồ sộ của
tác phẩm này.
Điều thứ hai là nội dung sự kiện trong tác phẩm. Tuy tác giả không đặt
tên và rạch ròi trong các sự kiện, nhưng nếu quan sát kỹ người đọc sẽ nhận ra
bước đi trong tác phẩm này. Ban đầu thi nhân dắt ta lang thang qua những
vùng trời khác nhau trong thế giới của mộng, của cõi hồng hoang nguyên
thủy, của miền vô thức âm u huyền hoặc. Nhưng càng về sau, thi nhân đã rời
dần thế giới ấy đúng như câu thơ đầu tiên mở đầu tác phẩm:
Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí
Đúng với tính chất một lời truy điệu, các phần về sau của tác phẩm cảm
hứng của tác giả đã bắt đầu tiến gần đến thế giới thực tại. Chính vì “tự sát
trong cô đơn nên chẳng bao giờ chết”, con người đã nhận ra ý nghĩa của cuộc
sống. Kể từ nay, Ngô Kha không còn lang bạt trong thế giới của cô đơn mà
thoát ra khỏi chúng, tiến vào cuộc đời thật, xuất hiện trong các “trận địa
đường phố” để có Trường ca hòa bình sau này. Điều này có nghĩa tác phẩm
không đơn giản chỉ là một cảm hứng bất chợt mà là mạch nguồn cảm hứng
lớn, có cả những dự định và đi qua nhiều sự kiện để cuối cùng trở thành
thành tựu. Nó vừa mang ý nghĩa biểu đạt của trường ca, vừa phù hợp với đặc
điểm của thể loại này.
Không như các trường ca hiện đại thường có mặt yếu tố tự sự, anh
hùng ca, trường ca của Ngô Kha cho ta thấy một sự khám phá mới trong cách
thức biểu đạt cảm xúc. Đó như sự cải cách thể loại và là sự lựa chọn táo bạo
của ông. Có thể nói trường ca của Ngô Kha là một điều vừa tự nhiên vừa đặc
biệt. Sự kết hợp giữa lối viết của chủ nghĩa siêu thực với cách biểu đạt của
trường ca làm tăng hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm này. Bởi trường ca
thường là thể loại tỏ ra phù hợp với những cảm xúc, những sự kiện lớn. Đi
vào thế giới vô thức là một miền đất vốn hoang sơ chưa có nhiều người khai
phá nên chứa đựng trong đó một trường khám phá. Chính vì thế thật không
quá khó hiểu để lý giải tại sao Ngụ ngôn của người đãng trí lại mang dáng
dấp của một trường ca. Nói là mang dáng dấp vì có lẽ bản thân tác giả cũng
không có ý định viết nó như một trường ca, mà theo tiếng gọi của miền vô
thức, theo mạch cảm xúc dâng trào, Ngô Kha đã bày hết tâm trạng của mình
lên trang giấy.
Không giống với tính chất vốn có của trường ca, cũng như không giống
như những trường ca hiện đại là tự sự và trữ tình kết hợp nhau, trường ca của
Ngô Kha là một đường dẫn tự nhiên của miền ký ức đang rất lộn xộn, không
thành hình thành chuỗi một cách rạch ròi. Cái gì đến với Ngô Kha cũng như
một ngẫu nhiên, tự do như chính tâm hồn ông vậy. Không thể nói Ngụ ngôn
của người đãng trí không có cốt truyện, không có mạch tự sự, mà bởi cái hỗn
mang của miền vô thức làm xóa nhòa các ranh giới ấy. Có lẽ câu chuyện ngụ
ngôn của Ngô Kha mang lại xa lạ quá không đủ sức cho ta nắm bắt. Đó vốn
dĩ cũng là một cõi xa lạ với Ngô Kha, nên nói như Hàn Mặc Tử, càng đi xa
càng ớn lạnh, bởi thế giới ấy “rộng rinh không bờ bến” ([9]). Nhưng nếu nhìn
kỹ sẽ thấy có một trật tự trong đó. Đó không gì khác hơn là trật tự vốn có
trong chuỗi cảm xúc của thi nhân. Càng về các chương sau càng mang bóng
dáng của hiện tại, của sự thật, không còn là cái mông lung xa vời nữa.
Bản thân trường ca là một thể loại khá đặc biệt. Nó cho phép diễn đạt
tự do cảm xúc của thi nhân cùng những vấn đề có tính rộng lớn nhưng được
đặt trong một cái khung khá cố định, nghĩa là phải theo một kết cấu chặt chẽ
và hệ thống. Dựa vào đặc điểm đó ta thấy, Ngô Kha đã rất tinh tế khi chọn
trường ca là thể loại sở trường sáng tác của mình. Trường ca tỏ ra khá phù
hợp trong việc biểu đạt những cảm xúc dào dạt của thi nhân, nhất là đó lại là
trợ thủ đắc lực cho lối viết tự do của chủ nghĩa siêu thực. Nó làm cho thế giới
ấy càng mở rộng biên độ và giãi bày hết tất cả những cảm xúc từ miền vô
thức của con người. Có lẽ chính sự khám phá và kết hợp táo bạo ấy đã làm
tăng thêm giá trị nghệ thuật cho những tác phẩm của ông.
Không giống như một số tác giả khác khi viết trường ca thường đặt cái
tôi của mình bên ngoài để cảm nhận và ngợi ca những vấn đề của xã hội, Ngô
Kha viết trường ca trước hết là sự giãi bày nội tâm của mình. Chính ông là
chủ thể tác động vào thế giới, mà không đâu xa, đó là miền vô thức của mình.
Chính vì thế, tầm vóc sự kiện của tác phẩm phần nào phản ánh tầm vóc của
vấn đề mà thi nhân đang thể hiện. Ta đặc biệt nhìn thấy điều này trong Ngụ
ngôn của người đãng trí, biểu hiện một hành trình dài trong thế giới nội tâm
của tác giả. Đó là cả một vấn đề nhân sinh không chỉ ám ảnh Ngô Kha mà
còn ám ảnh tâm trạng chung của bao nhiêu thế hệ thanh niên trí thức lúc bấy
giờ. Khi “quê hương này thất lạc” thì đâu là chỗ đứng cho mình? Đó có lẽ là
vấn đề lớn nhất, day dứt nhất mà lịch sử đặt ra cho họ, những trí thức ngày ấy
mà cụ thể là nhà thơ của chúng ta. Kết thúc trường ca cũng là lời từ biệt với
khoảng trời bơ vơ, mở đầu cho một ý thức dấn thân quyết liệt sau này.
Ta có cảm giác khi sáng tác trường ca, Ngô Kha không quá khó nhọc
trong việc xây dựng cốt truyện, lập nên ý tưởng, mà đó chính là cái “dòng
sống” đang trào dâng trong tâm thức nhà thơ và rất cần được bày tỏ. Nhờ vậy
mà không khí, nhịp điệu phát triển của trường ca luôn sôi nổi, khẩn trương,
hào hứng bất tận như dòng thác mãnh liệt trong tâm hồn. Chính vì thế, có một
điểm khác biệt trong trường ca của Ngô Kha và những nhà thơ khác là không
có sự phân chia sự kiện hay giai đoạn một cách rõ ràng.
Đúng như Chu Văn Sơn nói trong bài viết của mình, nếu ai chỉ biết chờ
chộp được một ý tưởng, một dòng cảm hứng hay lượm lặt, lắp ghép những
hình ảnh vào nhau thì không thể nào sống được với trường ca. Điều này cũng
giống như người nào đó bắt ta làm việc gì mà bản thân ta không muốn, phải
gượng ép hay chỉ làm qua loa cho có công thì khó thể nào thành tựu được.
Trường ca là một cô nàng khó tính vậy. Đến với nàng phải bằng tình yêu,
cảm xúc chân thật tiềm ẩn từ trong chính con người thì mới sống lâu dài với
nàng được. Ngô Kha là chàng thi sĩ đã được nàng lựa chọn và trao cả cuộc
đời cho ông. Trường ca vừa là người dẫn đường, vừa là nơi tựa gởi tâm sự
sâu kín, vô tận của lòng ông. Họ đến với nhau một cách ngẫu nhiên nhưng
không thể rời nhau, thấu hiểu, tương hợp và đắc dụng đến lạ kỳ.
Xuất bản ba tập thơ thì có đến hai tập là trường ca, Ngô Kha khá khéo
léo trong việc lựa chọn thể loại làm phương thức biểu đạt chính trong thơ
mình. Ông là người yêu chuộng sự tự do, nhưng không phải tự do vô lề lối.
Muốn thế ông phải chọn cho những ý tưởng của mình một cái khung để
khuôn chúng lại, như làm hàng rào cho khu vườn nhà mình. Việc chọn
trường ca trong thơ Ngô Kha cũng có ý nghĩa tương tự như vậy. Đầu tiên ông
chọn cho mình thể thơ tự do để sáng tác, thứ nữa là đến cách diễn đạt siêu
thực