Bước vào thế kỷ mới, một câu hỏi lớn đang nổi cộm trong tư duy chính
trị là: Thế giới sẽ sống như thế nào với nước Mỹ lên ngôi đế chế và nước Mỹ
sẽ hành sử thế nào với phần còn lại của thế giới.
Một sự mất cân bằng lớn đang diễn ra trên mọi lĩnh vực < chính trị -kinh tế - văn hoá - nghệ thuật - tôn giáo.> dưới một góc độ, trên tầm bao
quát vĩ mô nhất, cũng nhưẩn chứa len lỏi dưới mọi tầng nấc vi mô nhất. Đây
là nỗi bản khoản, bức xúc tới mức ám ảnh trong đời sống tinh thần của nhân
loại. Tất cả những vấn đề trên đây sẽđược tần nào sáng tỏ, hệ thống qua việc
tìm hiểu, hệ thống về “ý thức và vai trò của nó trong đời sống xã hội".
* Đối với mỗi con người nói riêng và quốc gia trên thế giới tại sao lại không
muốn có một xã hội công bằng - văn minh với những con người văn minh,
một x ã hội không có sự bóc lột, tràđạp. Để hiểu rõ vấn đề ta đi sau vào nghiên
cứu đề tài: "Nguồn gốc và bản chất của ý thức. Ý nghĩa đối với bản thân
trong việc phát huy tính năng động chủ quan của con người. Sự vận dụng
của Đảng trong đường lối đổi mới"
22 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7917 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguồn gốc và bản chất của ý thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn:
“Nguồn gốc và bản chất của ý thức”
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ mới, một câu hỏi lớn đang nổi cộm trong tư duy chính
trị là: Thế giới sẽ sống như thế nào với nước Mỹ lên ngôi đế chế và nước Mỹ
sẽ hành sử thế nào với phần còn lại của thế giới.
Một sự mất cân bằng lớn đang diễn ra trên mọi lĩnh vực < chính trị -
kinh tế - văn hoá - nghệ thuật - tôn giáo...> dưới một góc độ, trên tầm bao
quát vĩ mô nhất, cũng nhưẩn chứa len lỏi dưới mọi tầng nấc vi mô nhất. Đây
là nỗi bản khoản, bức xúc tới mức ám ảnh trong đời sống tinh thần của nhân
loại. Tất cả những vấn đề trên đây sẽđược tần nào sáng tỏ, hệ thống qua việc
tìm hiểu, hệ thống về “ý thức và vai trò của nó trong đời sống xã hội".
* Đối với mỗi con người nói riêng và quốc gia trên thế giới tại sao lại không
muốn có một xã hội công bằng - văn minh với những con người văn minh,
một xã hội không có sự bóc lột, tràđạp. Để hiểu rõ vấn đề ta đi sau vào nghiên
cứu đề tài: "Nguồn gốc và bản chất của ý thức. Ý nghĩa đối với bản thân
trong việc phát huy tính năng động chủ quan của con người. Sự vận dụng
của Đảng trong đường lối đổi mới".
3
B. PHẦNNỘIDUNG
I.Ý thức và tính chất của ý thức
1. Nội dung và tính chất của ý thức xã hội.
a. Khái niệm ý thức.
Đề tài đi sâu nghiên cứu một số vấn đề nổi cộm trong xã hội ngày nay
qua những tình thái biểu hiện của ý thức.
* Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống
riêng, tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quy định, sinh ra vật chất.
* Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật
chất.
*Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy được ý thức phản ánh thế giới
khách quan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc
xã hội và vai trò xã hội của ý thức.
* Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa, phát triển, khắc tục những
quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học vềý thức.
+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người
thông qua lao động và ngôn ngữ.
+ Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm
giác cho tới tư duy, lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
b) Kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm vềý thưc theo các trường
phái khác nhau . Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức làđặc
tính và là sản phẩm của vật chất ,là sự phản ánh khách quan vào bộóc con
người thông qua lao động và ngôn ngữ .Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ýthức
4
là chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộóc con người vàđược
cải biến trong đó .ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp
gồm ý thức tri thức ,tình cảm ,ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất ,là
phương thức tồn tại của ý thức,vì sự hình thành và phát triển của ý thức có
liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức và cải biến giới tự
nhiên.Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu vào bản chất của sự
vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn ,tính năng động của ý thức nhờđó mà
tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng cóý nghĩa
chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm ,niềm tin …Quan điểm đó
chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng .Tuy nhiên việc nhấn
mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố
vai trò tình cảm ý chí.
Tựý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực
thểđộc lập có sẵn trong cá nhân ,biểu hiện xu hướng về bản thân mình ,tự
khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội .Trái lại CNDVBC tựý thức làý
thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên
ngoài .Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình ,đối lập
mình với thế giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động ,có
cảm giác ,tư duy có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội .Mặt khác sự giao tiếp
xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình
và tựđiều chỉnh theo các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội đề ra .Ngoài ra văn hoá
cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con người tựý thức bản thân .
Vô thức là một hiện tượng tâm lý ,nhưng có liên quan đến hoạt động xảy
ra ở ngoài phạm vi của ý thức .Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến
các hành vi chưa được con người ý thức ,loại thứ hai liên quan đến các hành
vi trước kia đãđược ý thức nhưng do lặp lại nên trở thàmh thói quen ,có thể
diễn ra tựđộng bên ngoài sự chỉđạo của ý thức.Vô thức ảnh hưởng đến nhiều
phạm vi hoạt động của con người .Trong những hoàn cảnh đó nó có thểgiúp
5
con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động .Việc tăng cường rèn luyện
để biến thành hành vi tích cực thành thói quen ,có vai trò quan trọng trong đời
sống .
c. Nguồn gốc ý thức.
* Nguồn gốc tự nhiên.
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự
nhiên của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải
thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của
khoa học tự nhiên nhất là sinh lýb học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không
phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có
tổ chức cao là bộóc người. Bộóc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức
là chức năng của bộóc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ
sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộóc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt
động bộóc người, do đó khi bộóc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không
bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt
động sinh lý thần kinh của bộóc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động
sinh lý thần kinh của bộóc người.
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo
ra những máy móc thay thế cho một phần lao động tríóc của con người.
Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều
đó không có nghĩa là máy móc cũng cóý thức như con người. Máy móc dù có
tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thếđược cho hoạt động
trí tuệ của con người. Máy mcó là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra,
còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện
thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có con
người với bộóc của mình mới cóý thức theo đúng nghĩa của từđó.
6
* Nguồn gốc xã hội.
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời
của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá
trình hình thành bộóc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay
từđầu đã mang tính chất xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới
dạng trực tiếp, còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự
sống thường không có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tạo từ những vật
phẩm ấy. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách
quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới cóý
thức về thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận
thụđộng. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực,
bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận
động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác
động vào bộóc người. Ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác
động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủđộngu của con người.
Như vậy, không phải ngẫu nihên thế giới khách quan tác động vào bộóc người
để con người có thức, mà trái lại, con người cóý thức chính vì con người
chủđộng tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế
giới. Con người chỉ cóý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý
thức chỉđược hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới,
ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
7
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm cho nhau. Chính nhu cầu đóđòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ.
Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy
rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao
động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành.
Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín
hiệu này - tức ngôn ngữ, thìý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn
ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể cóý thức. Ngôn ngữ (tiếng
nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy.
Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có
thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết
của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. Ý thức
không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất
xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thìý thức
không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan
trọng để phát triển tâm lý, tư duy và văn hoá con người, xã hội loài người nói
chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động vàđồng thời với lao động là
ngôn ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của
con người, tâm lýđộng vật thành ý thức.
d) Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõý thức có bản tính
phản ánh,sáng tạo và bản tính xã hội .
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị nội
dung được từ vật gây tác động vàđược truyền đi trong quá trình phản ánh .
Bản tính của nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy kháh
quan làm tiền đề ,bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
8
Ý thức ngay từđầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng tạo cải
biến và thống trị tự nhiên của con người vàđã trở thành mặt không thể thiếu
của hoạt động đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại
một cách thụđộng nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu nhập
thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin .Tính sáng tạo của ý thức còn
thể hiện ở khả năng gián tiếp kháI quát thế giới khách quan ở quá trình
chủđộng ,tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau ,không thể tách rời,
không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh làđiểm xuất phát là cơ
sở của sáng tạo. Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin ,là sự thống
nhất mặt khách quan chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉđược nảy sinh trong lao động ,hoạt động cải tạo thế giới của
con người.Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã
hội. ý thức trước hết là thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những
gìđang diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong
quan hệ xã hội.Do đóý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội
và các quy luật của tồn tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá nhân mang trong
lòng nóý thức xã hội ,Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính
phản ánh trong sáng tạo.Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan
của ý thức ,ở qaun hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tốý thức trong hoạt động
cải tạo thế giới quan của con người.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những nguyên
nhân sau đây:
- Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến
đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh màý thức xã hội không
9
phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại
xã hội cho nên nó chỉ biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.
- Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể
và những tư tưởng chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ tư tưởng tôn giáo,
những quan niệm và chuẩn mục đạo đức, những tập tục v.v...).
- Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ,
lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá
nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
b. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển .
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội
cóý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội.
Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số
kiến thức mà loài người đã tích luỹđược dưới ách thống trị của xã hội tư bản,
xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng
giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự
hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền
văn hoá Việt Nam.
c. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ăngghen viết:” Sự phát triển về chính trị, phát luật, triết học, tôn giáo,
văn hoá, nghệ thuật v.v... dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cdả những
sự phát triển đóđều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế”.
Mức độảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể: vào tính chất của các mối quan hệ kinh
tếmà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ
10
tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng trong quần chúng.
Cũng do đóởđây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ vàý thức tư
tưởng phản tiến bộđối với sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những đối lập với chủ nghĩa duy tâm
trong sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan điểm
của chủ nghĩa duy vật tàm thường (hay chủ nghĩa duy kinh tế) phủ nhận tác
dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác bỏ mọi
quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
vàý thức xã hội.
II.ÝNGHĨA, VAITRÒCỦAÝTHỨCTRONGĐỜISỐNGXÃHỘI.
Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình thái ý
thức xã hội, mà những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống xã hội
con người. Đặc biệt trong vấn đề về tư tưởng chính trị pháp quyền - tình cảm
- tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự tác động hay vai trò những tình thái ý thức
xã hội này trong đời sống xã hội con người.
1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền.
Tình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó
phản ánh các quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các
quốc gia. Nó thể hiện thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ ra cùng tới một con
kịch phát chưa từng có của chủ nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn khắp
nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ XXI đã nhuốm màu bạo lực với sự kiện
ngày 11 -9 -2001 và tiếp nối ngay sau đó là cuộc chiến tranh Atgamixtan cuộc
chiến tranh Mỹ sắp giáng xuống đầu nhân dân I rắc không chỉ và vấn đền
quan hệ song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị xếp vào “trục ma quy” với
11
siêu cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn đề thế giới đang phải đối đầu
với chủ nghĩa đơn thương độc đoán Mỹ.
Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng
phập phồng bất an. Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được hậu
quả hay do cố tình không nhận thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ và các quốc
gia đó do áp đặt quân sự và các chính sách kinh tế khác, trên các quốc gia
(như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan).
“135 lịch sử kinh hoàng nước Mỹ 11 / 9 /01 đã làm chấn động địa cầu.
Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quảđể lại sau
thảm hoạ trở thành những nguyên nhân của những sự biến mới trên trường
quốc tế là gì?
Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố nhằm vào
nước Mỹ có phải làđiều tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước Mỹ
thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹđã bất chấp những cái tồn tại khách quan
luôn phá vỡ những quy ước chung và hành động theo ý thức thuộc cái riêng
mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽđương nhiên là lời cảnh báo buộc
Mỹ phải xem xét lại chính mình về mọi mặt chính trị, quân sự ngoại giao. Mỹ
nên tôn trọng những hiệp định chung đãđược thoả thuận trong các tổ chức
mang tính quốc tế như Liên hợp quốc và liệu rằng những đòn trảđũa của
Mỹđánh vào Irắc có thêm một lần phạm phải sai lầm chủ quan nữa chăng.
2. Hình thái ý thức trong đạo đức - phong tục - tập quán
a) Sự tựý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v.. phản ánh
khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ
bản biểu hiện cái thiện trong con người, và cũng là biểu hiện tố chất nhân văn
của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức là nhân tố quan trọng của tiến
bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó, các quan niệm về thiện
vàác, về hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng trở thành
12
những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức trong đời sống văn hoá tinh
thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.
b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trịđạo
đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ thống
đạo đức khác nhau, có tác dụng điều chỉnh hành vi của mọi người, nhằm giữ
gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của từng cá nhân và cộng
đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào.
c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo
đức bị chi phối bởi nội dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trùđạo
đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong
những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều tạo ra những quan
điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên
của xã hội thìđại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp đã rời
khỏi vũđại lịch sử thìđại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen viết:
“Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm
của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay
đã phát triển trong sựđối lập giai cấp, đạo đức luôn luôn làđạo đức của giai
cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống
trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trịđã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi
dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trịđã trở nên khá mạnh, thì nó
tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa
những người bịáp bức”.
Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan
niệm sai lầm cho rằng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệđã xuất hiện một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp. Trong đó,
người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo như một thứđạo đức duy
nhất có khả năng chỉ ra cho toàn thể loài người con đường phát triển đi lên.
d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của
13
nóđãkhông ngừng được tạo ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ