Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế
giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
Trong báo cáo chính trị của “ban chấp hành trung ương” khoá VIII trình đại hội
IX của Đảng ta có đề cập. Nhà nước ta quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Điều đó đã thúc đẩy mọi người phát
huy nghiên cứu mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất
yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có
đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng
an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá
trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.
Như vậy, việc Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một điều hết sức cần thiết.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nhận thức nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
A. ĐặT VấN Đề
Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế
giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn..
Trong báo cáo chính trị của “ban chấp hành trung ương” khoá VIII trình đại hội
IX của Đảng ta có đề cập. Nhà nước ta quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Điều đó đã thúc đẩy mọi người phát
huy nghiên cứu mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất
yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có
đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng
an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá
trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.
Như vậy, việc Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một điều hết sức cần thiết.
B. Nội dung
I. Những lý luân chung về quan điểm toàn diện.
1. Cơ sở lý luận.
Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng. Đó là các sự vật hiện tượng không tồn tại cô lập, biệt luật mà thống
nhất nhau trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng
buộc lẫn nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau.
Không chỉ tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống lĩnh vực tinh thần mọi sự vật
hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ đó là tính
khách quan và tính phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai trò vị trí
khác nhau trong sự tồn tại, vận động phát triển sự vật hiện tượng có mối quan hệ bên
trong (sự liên hệ tác động, lại có mối liên hệ bên ngoài, nói chung mối liên hệ này
không có ý nghĩa quyết định hơn nữa nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mà
phát huy tác dụng đối với các sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên nó là
mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường vì vậy không có một sự
kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời những sự kiện khác. Chẳng hạn cuộc
cách mạng khoá học cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra những thời
cơ nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát
triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không trước
hết phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng của Nhà nước và tiếp nữa là sự phấn
đấu toàn nhân dân Việt Nam. Song chúng ta cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội nếu không hội nhập quốc tế. Không vận dụng được những thành quả của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ
bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò chủ đạo.
Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng trong
từng lĩnh vực cụ thể.
Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng, lại có mối liên hệ
gián tiếp (sự vật hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua một hay nhiều
khâu trung gian).
Từ nhận thức trên trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có
các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý nền kinh tế quan điểm toàn diện ở đây thể
hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phải xây dựng các yếu tố thị trường
mang tính đồng bộ tính toàn diện chứ không phải xây dựng các công cụ riêng biệt lẻ
loi, các thị trường hàng hoá, dịch vụ cụ thể (thị trường vốn, thị trường lao động ) mà
ngay bản thân nền kinh tế cũng vậy nó không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong
mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế chính trị ngoại giao, kinh tế
chính trị, đạo đức pháp quyền, kinh tế chính trị – khoa khọc – nghệ thuật)
2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức đúng đắn về sự vật, chúng ta phải
xem xét nó trên 2 khía cạnh.
a. Trong mối liên hệ giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác của chính
sự vật đó.
b. Trong mối liên hệ giữa sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp)
- VI – Lê Nin viết “Muốn hiểu thực sự được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mói liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cầm xem xét
nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người,
mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh
được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy trí thức đạt được về sự vật
cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.
- Như vậy quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng
nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện
tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê
những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng. Nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái
cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện.
Để cải tạo một sự vật hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt
động thực tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện
trong các chủ trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song
toàn diện đồng bộ, không phải cái gì cũng đặt ra một cách dẫn đến tràn lan mà đòi hỏi
trong mỗi một thời kỳ mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp
mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định được những khâu then chốt tập trung
giải quyết để làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ góp
phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều phiến diện trong thế giới khách quan,
mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần phải xem xét các
mặt tránh xem xét một mặt hoặc một vài mắt đã vội kết luận ngay vấn đề như vậy sẽ
không chính xác. các quan hệ lợi ích thường chỉ thắng lợi ích trước mắt và không thấy
được lợi ích lâu dài.
Chống lại chủ nghĩa nguỵ biện và chủ nghĩa triết chung nhân danh toàn diện để
kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh
không đúng về sự vật.
II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
1. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là gì?
1.1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường.
Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loại
người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong
sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản
phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên
nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những
sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình
thiếu do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện từ đó.
Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã
hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối
giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập
hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là
người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay
ngẫu nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm.
Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình
sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh mà
nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh
riêng của chủ nghĩa tư bản là không có căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với
chủ nghĩa tư bản rồi nó tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi
việc áp dụng kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có
thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định
“sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ
kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn
tồn tại khách quan cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo
văn kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu của nó.
a. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước
kia sự cạnh tranh nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng
một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa khọc phát triển, tiếp
thu được các công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho
hàng loạt Xí nghiệp doanh nghiệp bị phá sản. Đó là do kinh tế thị trường bao hàm cả
hai mặt tích cực và tiêu cực.
- Về mặt tích cực: Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động,
quyết đoán có được nhiều kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại
từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động đẩy mạnh quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất, quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
- Về mặt tiêu cực và hạn chế: phân hoá giầu nghèo quá xa, dẫn đến mọi cân
bằng xã hội, xuất hiện mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp
mang lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, quá coi
trọng đồng tiền xem thường đạo đức truyền thống.
Vậy để phát triển kinh tế thị trường cần phải có sự tác động của Nhà nước để
tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực. Điều đó đã được thể hiện rõ trong
đường lối kinh tế ở nước ta là Nhà nước quản lý kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gọi tắt là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng hành chính công, lúc đầu chỉ
“mờ nhạt” đơn thuần là thu thuế của các tầng lớp dân cư hoạt động sản xuất kinh
doanh nhưng do tính tự phát của kinh tế thị trường đã gây ra những hậu quả ngày càng
nặng nền mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào kinh tế từ đó,
chức năng kinh tế của Nhà nước cũng dần được xác định. Học thuyết của JMKên (nhà
kinh tế học Anh, 1884-1946) là điển hình về sự kêu gọi phải có bàn tay “hữu hình” của
Nhà nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị
trường.
Tiếp sau học thuyết của Kên là nhiều học thuyết kinh tế với tên gọi khác nhưng
chỉ tập trung bàn về việc Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế như thế nào mức độ, thời
điểm sao cho hiệu quả cao. Do đó, việc can thiệp vào quá trình kinh tế (quản lý kinh tế
vĩ mô) đã được coi là đương nhiên, mang tính quy luật của kinh tế thị trường và việc
định hướng phát triển của nền kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai
cấp của Đảng cầm quyền.
Chúng ta biết rằng, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công cụ
của giai cấp cầm quyền, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường ngay từ buổi bình
minh của nó để đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và tư bản, nhằm hình thành
và phát triển chủ nghĩa tư bản, ngay cả sau này, khi Nhà nước tư bản chủ nghĩa ban
hành các đạo luật chống độc quyền cũng quyết không phải vì lợi ích của giai cấp cần
lao, mà vẫn là vì lợi ích toàn cục của chế độ TBCN nói chung vì các tập đoàn tài chính
nói riêng. Vì thế việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính quy
luật đã hình thành trong thực tiễn. Ngay trong nghị quyết trung ương 4 khoá VIII Đảng
ta đã khẳng định: Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà nước vè kinh tế – xã hội coi đó
như là một chính sách lớn để đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa được thực
hiện.
Kinh tế thị trường định hướng Xí nghiệp chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức
nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên những nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có 2 nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau
và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là
“động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò
hướng dẫn, chỉ đạo sự vận đọng của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác
định.
Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở. Để mở
cửa nền kinh tế tuỳ thuộc vào: thứ nhất, bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh
của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới, thứ hai, năng
lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng nội sinh
hoá có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí thức
kinh doanh...) du nhập vào nước ta.
Như vậy, sự hiện diện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là bộ phận cấu thành trọng yếu
(kinh tế Nhà nước ), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ
mô nền kinh tế thị trường.
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi Nhà nước của dân, do dân
và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây:
Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh;
các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi
nhuận làm thước đo hiệu quả đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế
của mình, tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân
theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật
đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế,
chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của Nhà nước đối với các điều
kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh
tranh, chăm sóc môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không
có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,.....
Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng
kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông
vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát
triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm
bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng...
Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển
kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện
các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ,
sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu
tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích.
Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định
hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch hoá, phát
huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích
của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”.
Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước
đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không còn
cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận
và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết
đến nay trrên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp
bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị
trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh
nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh
nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng
điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế
chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ
đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước – là
sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua
cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt
động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả
hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều
tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với
thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát
triển kinh tế xã hội.
Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò
rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý Nhà nước nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung,
ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước
về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém.
Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh
tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng, định hướng sự
phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ lực phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất
quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc
phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã
hội.
Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở
hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào
chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
b. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta:
Đối với nước ta, giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước trong điều
tiết, quản lý nền kinh tế cũn