Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Nghề
nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời,
trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề
nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con
người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con
người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay,
để chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là một việc không
dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay phải làm việc không đúng với
chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra,
không cảm thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự
lãng phí nhân lực rất lớn và phân bố nhân lực không hợp lý.
89 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4861 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------
Nguyễn Thị Thanh Thảo
NHU CẦU TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số : 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Nghề
nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời,
trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề
nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con
người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con
người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay,
để chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là một việc không
dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay phải làm việc không đúng với
chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra,
không cảm thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự
lãng phí nhân lực rất lớn và phân bố nhân lực không hợp lý.
Tư vấn hướng nghiệp được xem là một vấn đề nóng hiện nay, nhất là trong trường phổ thông.
Khi được định hướng đúng đắn về nghề, con người sẽ yên tâm với nghề mình đã lựa chọn, có thái độ
chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có thể hoạt động tốt lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu
chọn được đúng nghề phù hợp, con người càng có nhiều cơ hội để thành đạt sau này. Nói cách khác, tư
vấn hướng nghiệp giúp cho thanh thiếu niên chọn nghề một cách có cơ sở, giúp họ có được nhận thức
đúng đắn hơn về nghề nghiệp, phát huy tối đa năng lực sáng tạo, nâng cao chất lượng cuộc sống, phù
hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, tránh
lãng phí về đào tạo và sử dụng lao động hợp lý, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội bền vững
của đất nước. Nhìn tổng quát về công tác tư vấn hướng nghiệp hiện nay thì vấn đề này còn nhiều nội
dung chưa được quan tâm hoặc chưa làm đến nơi đến chốn. Thường thì chỉ khi gần đến kỳ thi tuyển
sinh hàng năm, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền thông,
các tổ chức chính trị-xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các trường trung học phổ thông (THPT).
Điều này chỉ mới cung cấp được một số thông tin cơ bản về trường thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện
vọng, chưa đủ cơ sở để giúp các em học sinh có những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn
nghề nghiệp tương lai. Sự hiểu biết về nghề nghiệp mà các em chọn cũng như những yêu cầu của nghề
và sự đáp ứng yêu cầu của bản thân đối với nghề còn rất hạn chế. Điều này đã làm cho các em có
những suy nghĩ sai lệch trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy học sinh rất cần
được sự định hướng đúng, được tư vấn rõ ràng và đầy đủ trong việc hướng nghiệp.
Kiên Giang cũng nằm trong thực trạng chung đó; là một tỉnh vùng sâu ven biển thuộc Đồng
bằng sông Cửu Long, chính vì vậy việc tiếp cận thông tin nghề nghiệp cũng như các hoạt động tư vấn
hướng nghiệp dành cho học sinh rất khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu cần được tư vấn của học sinh là
rất cao, các em luôn tìm đến thầy cô, các đoàn thể cũng như các tổ chức khác có liên quan để được giải
đáp mọi thắc mắc về nghề nghiệp mà các em sẽ chọn. Tuy nhiên, hiện tượng học sinh gặp nhiều khó
khăn trong việc chọn trường, chọn nghề luôn xảy ra; đa số các em đều có mong muốn được vào các
trường Đại học hoặc Cao đẳng để có một nghề nghiệp nhất định. Thế nhưng sự hiểu biết của các em về
nghề nghiệp mà các em chọn thì rất mơ hồ và hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
học tập và nghề nghiệp của các em sau này. Có những em theo đuổi ngành học của mình cho đến khi đi
thực tập thì mới phát hiện mình không thích hợp với nghề nghiệp đã chọn; sinh viên ra trường làm việc
trái với ngành nghề chuyên môn hoặc không thể xin được việc ngày càng nhiều. Tình hình trên có
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do các em thiếu các thông tin cần thiết nên chọn nghề
chưa phù hợp với thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Về mặt chủ quan, nhìn
chung, đa số học sinh có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng nhu cầu này còn phiến diện, học sinh chỉ
mới quan tâm chủ yếu đến các nghề có thu nhập cao, chưa quan tâm tìm hiểu các khía cạnh khác như
năng lực, hứng thú cá nhân, những yêu cầu của nghề đối với người lao động, triển vọng phát triển của
nghề ở địa phương và nhu cầu nhân lực... Đây là những nội dung thật sự cần thiết nhưng học sinh chưa
ý thức được để có nhu cầu tư vấn. Mặt khác, trong thực tế hiện nay, các nhà trường phổ thông chỉ mới
dừng lại ở việc cung cấp thông tin tối thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường đại học, cao
đẳng, mà không hề quan tâm đến những yếu tố có liên quan khác. Một số trường có tổ chức cho học
sinh tham quan các trường đại học, hoặc các xí nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng hoạt động này không
nhiều, và cũng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó, khi học sinh muốn tìm hiểu thêm các vấn đề
khác có liên quan thì hầu như các nhà trường đều không đáp ứng được, hoặc chưa định hướng được
cho học sinh về những nội dung cần được tư vấn giúp các em ý thức được sự cần thiết và có nhu cầu
cần phải được tư vấn khi chọn nghề.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tư vấn hướng
nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang ”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nêu lên được nhu cầu về những nội dung tư vấn hướng nghiệp và mức độ biểu hiện nhu cầu về
những nội dung này ở học sinh lớp 12 THPT. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh thấy được sự cần
thiết của tư vấn hướng nghiệp, định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh khi
chọn nghề và thử nghiệm tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của
học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 12 THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC.
Đa số học sinh lớp 12 THPT có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng chưa xác định rõ ràng
những nội dung cần được tư vấn khi chọn nghề, dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức về nghề, trong việc
chọn nghề và những hệ quả sau đó. Nếu có biện pháp làm thay đổi nhận thức sẽ giúp học sinh hiểu
được đầy đủ sự cần thiết phải được tư vấn, từ đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp rõ ràng và đầy đủ khi
chọn nghề tương lai.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
5.1 Nghiên cứu lý luận tâm lý học về nhu cầu và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhu cầu tư vấn
hướng nghiệp của học sinh lớp 12.
5.2 Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 hiện nay; mức độ
đáp ứng đối với nhu cầu này.
5.3 Đề xuất biện pháp tác động nhằm định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh; đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của học
sinh.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
6.1 Những cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
6.1.1 Quan điểm hoạt động.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp dựa trên sự phân tích hoạt động sống, học tập của
học sinh trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
6.1.2 Quan điểm hệ thống - cấu trúc.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp một cách toàn diện nhiều mặt, trong nhiều mối quan
hệ với các hiện tượng tâm lý khác.
6.1.3 Quan điểm thực tiễn.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp xuất phát từ thực tiễn, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp
giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.
6.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Tham khảo các tài liệu lý luận tâm lý học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
khái quát hoá, hệ thống hóa các vấn đề có liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài.
6.2.2 Phương pháp điều tra và thu thập thông tin bằng bảng hỏi.
Sử dụng các phiếu điều tra bao gồm một hệ thống câu hỏi với mục đích làm khách thể nghiên
cứu bộc lộ rõ mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Phiếu điều tra nhằm làm sáng tỏ thực
trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT và những nguyên nhân của thực trạng.
6.2.3 Phương pháp trò chuyện.
Là phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra; thông qua phương pháp này nhằm thu thập
thêm thông tin để làm rõ thêm những nhận xét trong đề tài.
6.2.4 Phương pháp thực nghiệm: tư vấn cá nhân; tư vấn trực tiếp; tư vấn gián tiếp; tham quan
thực tế.
6.3 Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được. Cách xử lý số liệu theo
phương pháp thống kê toán ứng dụng trong giáo dục học và tâm lý học.
7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.
7.1 Giới hạn về đối tượng : Mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh.
7.2 Giới hạn về khách thể : Học sinh lớp 12 THPT.
7.3 Giới hạn về địa bàn : Số liệu được thu thập trên 620 học sinh tại 7 trường THPT. Nguyễn
Trung Trực, THPT. Huỳnh Mẫn Đạt, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Hà
Tiên, THPT. Định An huyện Gò Quao, THPT. Châu Thành tỉnh Kiên Giang.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI.
8.1 Đưa ra được một thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. tỉnh Kiên
Giang.
8.2 Cung cấp tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh
THPT. sống trong những điều kiện khó khăn ở vùng sâu, vùng xa; học sinh dân tộc ở Đồng bằng sông
Cửu Long.
8.3 Góp phần làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp có hiệu quả.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lược sử nghiên cứu vấn đề.
Tư vấn hướng nghiệp đang phát triển khá mạnh trong hệ thống giáo dục đương đại của thế giới
hiện nay, không chỉ là ở các nước phát triển như Pháp, Mỹ, Anh. mà ở cả những nước đang phát
triển cũng rất quan tâm, trong đó có Việt Nam. Đây được xem như là một công cụ hữu hiệu mang tính
chiến lược nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục và tạo ra sự phù hợp giữa hoạt động trong nhà trường và
thị trường lao động ngoài xã hội để hướng tới việc tăng cường chức năng xã hội của các cơ sở giáo dục
trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh phát triển lành mạnh. Đồng thời, tư vấn hướng nghiệp được coi
là điều kiện không thể thiếu cho sự lựa chọn và phát triển đúng đắn nghề nghiệp của thế hệ trẻ.
1.1.1 Nghiên cứu ở nước ngoài
Hướng nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, bắt đầu từ năm 1850 đến 1940, gắn liền với những cá
nhân như Francis Galton, Wilheim Wundt, James Cattell, Alfred Binet, Frank Parsons, Robert Yerkes,
và E. K. Strong. Cuối những năm 1800, một hệ thống công nghiệp với quy mô lớn ra đời đã làm thay
đổi mạnh mẽ môi trường làm việc và điều kiện sống. Khu vực đô thị phát triển, cùng với tốc độ phát
triển và tập trung hoá công nghiệp đã thu hút rất nhiều người dân lao động từ các khu vực nông thôn.
Để đáp ứng được các yêu cầu của các nhà máy công nghiệp và điều kiện sống khắc nghiệt, chật chội
trong những khu nhà ổ chuột, một nhu cầu đổi mới đã xuất hiện, một vài nhà nghiên cứu bắt đầu quan
tâm đến hành vi con người, quan tâm đến các điều kiện sống và làm việc trong xã hội bị thay đổi bởi
cuộc cách mạng công nghiệp. Những điều kiện khách quan trên để phôi thai và cho ra đời một ngành
khoa học, ngành tham vấn nghề. [15]
Nước Mỹ có phòng tư vấn nghề đầu tiên trên thế giới do Frank Parsons thành lập vào năm
1908 ở Boston. Nhiệm vụ của phòng này là tư vấn cho thanh niên có nhu cầu tìm kiếm công ăn việc
làm và giúp cho họ chọn được những nghề phù hợp với năng lực, sở trường của mình, nói một cách
khác, họ giúp cho học sinh lựa chọn công việc một cách khôn ngoan, và thực hiện việc di chuyển tiếp
cận từ trường học đến công việc phù hợp.
Hiện nay, ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tư vấn nghề với chương trình công nghệ và dạy nghề,
họ cũng đã đưa môn “Hướng dẫn chọn nghề” (Career Guidance) vào giảng dạy trong trường phổ
thông. Từ bậc trung học đến đại học đều có các cố vấn tâm lý làm việc trong trường. Công việc của họ
xuất phát từ nhu cầu lựa chọn một nghề phù hợp trong tương lai của học sinh, họ đưa ra lời khuyên cho
học sinh nên nộp đơn xin vào học trường đại học nào phù hợp với trình độ và năng khiếu học sinh.
Chương trình giáo dục THPT được cấu tạo mềm, gồm chương trình A và B. Từ khi vào học lớp 9,
người cố vấn đã chỉ cho học sinh nên học theo chương trình nào tuỳ theo nhu cầu, nguyện vọng của em
đó sau này muốn học lên đại học ngành gì hay sau khi học xong phổ thông sẽ đi làm.
Ở Pháp, năm 1948 đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” đề cập đến vấn đề hướng
nghiệp cho thanh niên. Để phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhà trường Pháp đặt giáo dục
lao động, thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trường, đào tạo
“tiền nghề nghiệp” là cơ sở cho việc học tập liên tục về sau và chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc
sống lao động. Tháng 3/1991 các nhà tư vấn hướng nghiệp trở thành nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý.
Các nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý được phân về trường phổ thông và đại học là công chức nhà
nước. Toàn bộ khu vực chuyên môn do các nhà chuyên môn đảm nhiệm. Cùng với giáo viên và phụ
huynh học sinh theo thời điểm mong muốn, các nhà tư vấn hướng nghiệp tổ chức thường xuyên, liên
tục các kiểm tra hệ thống về sự phát hiện bằng các trắc nghiệm tâm lý, kiến thức để đưa ra các thông
tin xác đáng. Từ đó cho học sinh những lời khuyên nhằm tránh những thiên hướng sai lệch, hướng học
sinh vào con đường thành công đúng theo nhu cầu và nguyện vọng của học sinh.
Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp để
chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề tuỳ theo trình độ học tập của mỗi em. Khi học sinh có
nhu cầu tìm hiểu nghề nghiệp mình muốn học thì giáo viên chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng
nghiệp, với những trường dạy nghề để tư vấn cho học sinh.
Ở các nước trong khu vực Châu Á cũng có sự quan tâm đến vấn đề này. Tại trường trung học
phổ thông, dù là trường công lập hay tư thục thì ở các em bắt đầu xuất hiện nhu cầu tìm hiểu và lựa
chọn nghề nghiệp tương lai. Và việc định hướng tương lai cho học sinh đều bắt đầu từ năm lớp 10
thông qua giờ hoạt động câu lạc bộ hoặc hướng dẫn riêng cho từng em của giáo viên chủ nhiệm. Lớp
11 nhà trường mời các giảng viên ở bên ngoài như những sinh viên đã ra trường hay những lãnh đạo
các doanh nghiệp đến nói chuyện về kinh nghiệm bản thân hay hoạt động ở doanh nghiệp của họ. Lớp
12 nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan để định hướng cho tương lai.
Ngoài các nội dung giáo dục bắt buộc trong chương trình dạy học, đa số các nước đều có môn
tự chọn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát triển các xu hướng học lên (Academic) hoặc học một
nghề phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng học sinh.[27]
Như vậy, việc điểm qua tình hình của một số nước trên thế giới cho ta thấy việc tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy, hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh
giá dựa trên kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về nhân cách tương lai. Nhà trường cần phải
có những nhà tư vấn hướng nghiệp chuyên môn để giúp học sinh lựa chọn khoá học thích hợp với nhu
cầu, hứng thú, năng lực của học sinh (có tính đến nhu cầu của thị trường lao động), dự báo những khó
khăn trong học tập và giúp học sinh giải quyết những khó khăn đó.
1.1.2 Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hướng nghiệp của
học sinh THPT, trong đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.
Thực trạng công tác tư vấn hướng nghiệp được nhiều tác giả nghiên cứu như Nguyễn Viết Sự,
Hà Thị Đức, Lưu Xuân Mới... Các tác giả này đề cập đến vấn đề nội dung tư vấn hướng nghiệp còn
nghèo nàn, chưa thu hút và đáp ứng được nhu cầu cần tư vấn của học sinh THPT, những người làm
công tác tư vấn hướng nghiệp tuy nhận thức được rất rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác
này đối với học sinh nhưng họ lại thiếu thông tin và điều kiện cần thiết để làm tốt. Bên cạnh đó các tác
giả cũng nói đến các nhân tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh và họ cho rằng việc lựa
chọn nghề nghiệp phần lớn là do cá nhân học sinh quyết định (chiếm 46%), ít chịu sự tác động từ gia
đình và các giáo viên. [24]
Trong nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT” cũng đã nhấn mạnh đến nguyện
vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế
với nhiều nước trên thế giới, vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế,
công nghệ tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo xu thế
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ nhỏ, từ mẫu người lý tưởng,
có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo yêu cầu của cha mẹ... Do đó có thể có sự không
phù hợp giữa sở thích và nguyện vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở
thích và khả năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi trọng.
Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái gì. Bên cạnh đó, sự hiểu
biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc, không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông
tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận
thức đúng đắn về nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy, biểu tượng về nghề nghiệp mà
học sinh định chọn không rõ ràng, phiến diện cũng là điều dễ hiểu. [31]
Tác giả Nguyễn Ngọc Minh trong công trình nghiên cứu “Nhận thức của giáo viên về tư vấn
hướng nghiệp trong nhà trường THPT” đã nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp hiện nay trong
nhà trường THPT là hầu hết các trường THPT đều đặc cách các giáo viên kiêm nhiệm thêm công tác
này, cho nên quá trình chuẩn bị thông tin, kiến thức cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường
của các giáo viên còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống. Tác giả cũng nêu lên được thái độ của giáo
viên đối với vai trò của tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường: đa số các giáo viên đều nhận biết và
thông hiểu một cách thấu đáo và sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, nhận biết được sự mong mỏi
của học sinh về một ban chuyên trách tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường để giúp các em lựa chọn
nghề nghiệp, trường thi khi các em ở những năm cuối cấp. Gần như 100% học sinh đều chọn ý kiến
mong muốn trong nhà trường có ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc
chọn nghề.[24]
Tác giả Phạm Ngọc Anh và Đỗ Thị Hoà với công trình nghiên cứu “Nguyện vọng nghề của học
sinh phổ thông và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó” - hầu hết học sinh THPT (89,4%) đều có
nguyện vọng học tiếp đại học, chỉ có một phần nhỏ các em là có nguyện vọng học nghề (4,7%) và các
yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng học nghề chủ yếu phụ thuộc vào phẩm chất tâm lý, sự định hướng
của các em hoàn toàn mang tính chất chủ quan cảm tính.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên học sinh, trong đó
động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự
sau:
- Khả năng của bản thân.
- Tính chất quan trọng của nghề nghiệp.
- Khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Nữ thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau