Dưới sự tác động của sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của kỹ thuật và công 
nghệ, ngày nay lực lượng sản xuất đã có bước phát triển mạnh mẽ. Lực lượng sản 
xuất thay đổi cả về tính chất và trình độ kéo theo sự thay đổi về quan hệ sản xuất. Do 
đó mà trong các nước chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó cung mang những đặcđiểm 
mới. 
Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế 
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mong muốn làm bạn với tất cả các nước 
trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới, tham gia phân 
công lao động và cạnh tranh quốc tế đâng là đề tài quan trọngcần được làm sáng tỏ. 
Hiện nay các nước tư bản phát triển vẫn đang giữ vị trí chi phối nền kinh tế thế giới. 
Trên phương diện chính trị thế giới cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện 
đại đang chiếm ưu thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh 
quốc tế như vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là diều hết sức 
cần thiết. 
Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội không phải bỗng dưng mà có và phát triển. 
Dương nhiên nó chỉ có thể làm nên những thành tựu của mình trên cơ sở đúc kết bài 
học và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở phát triển của xã hội loài nguời. Nghiên cứu 
những thành bai, được mất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lấy cái tốt bỏ cái xấu của 
nó là để giúp Chúng ta xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, ưu việt hơn tư 
bản chủ nghĩa.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10650 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản 
hiện đại ngày nay và xu hướng vận 
động của nó 
I - Lời mở đầu 
Dưới sự tác động của sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của kỹ thuật và công 
nghệ, ngày nay lực lượng sản xuất đã có bước phát triển mạnh mẽ. Lực lượng sản 
xuất thay đổi cả về tính chất và trình độ kéo theo sự thay đổi về quan hệ sản xuất. Do 
đó mà trong các nước chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó cung mang những đặcđiểm 
mới. 
Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế 
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mong muốn làm bạn với tất cả các nước 
trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới, tham gia phân 
công lao động và cạnh tranh quốc tế đâng là đề tài quan trọngcần được làm sáng tỏ. 
Hiện nay các nước tư bản phát triển vẫn đang giữ vị trí chi phối nền kinh tế thế giới. 
Trên phương diện chính trị thế giới cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện 
đại đang chiếm ưu thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh 
quốc tế như vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là diều hết sức 
cần thiết. 
Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội không phải bỗng dưng mà có và phát triển. 
Dương nhiên nó chỉ có thể làm nên những thành tựu của mình trên cơ sở đúc kết bài 
học và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở phát triển của xã hội loài nguời. Nghiên cứu 
những thành bai, được mất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lấy cái tốt bỏ cái xấu của 
nó là để giúp Chúng ta xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, ưu việt hơn tư 
bản chủ nghĩa. 
Do tính cấp thiết đó của đề tài, chúng em đã viết bài này. Mục đích nghiên cứu 
của đề tài là làm rõ những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu 
hướng vận động của nó. 
II - Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay 
1. Khái niệm về chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay 
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc 
quyền(chủ nghĩa tư bản hiện đại)nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, 
được phân tích kể tì sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, chủ yếu là từ những 
năm cuối của thế kỷ 20. 
ở đây chủ nghĩa tư bản hiẹn đại phản ánh một giai đoạn phát triển mới về chất trong 
lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đó là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền 
nhà nước với nhiều đặc trưng mới. 
2. Sự biến đổi về lực lượng sản xuất 
2.1 . Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật truyền 
thống sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất - đó là kinh tế trí 
thức. 
Kinh tế tri thức có những đặc trưng là: 
 Các tài sản vật thể (physical assets) như đất đai, nhà máy, thiết bị không còn 
đóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người có ý nghĩa quyết định sức 
mạnh kinh tế. Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí quan trọng. 
 Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” và được vận hành trên các siêu xa lộ 
thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin sẽ đóng vai trò 
quyết định nhất và có vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế” 
 Các quan niệm truyền thống và phương thức sản xuất kinh doanh sẽ thay đổi. 
Ví dụ, sở hữu trí tuệ được đề cao, quản lý theo mạng sẽ thay thế phương pháp 
quản lý theo thứ bậc 
Tuy nhiên hiện nay loài người mới ở bước quá độ. Những biểu hiện cụ thể 
của bước quá độ là sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống do 
cuộc cách mạng công nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên 
cơ sở của những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mà tập trung 
ở các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học. . . thể hiện trong 
những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền. . . tác động nhanh, hiệu quả cao, tiêu 
tốn ít năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức đa dạng, phong phú cả vế đối 
tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự động hoá ngày càng 
phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá. Có thể nói khái quát là 
hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hoá. Đó là: 
 + Máy tự động trong quá trình hoạt động 
 + Máy công cụ điều khiển bằng số 
 + Người máy. Đặc biệt là người máy(Robot) đã từng bước thay thế phần 
công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao động, 
đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do người máy điều khiển 
những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã bước đầu được 
thử nghiệm để người máy thay thế. 
 Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước hết thể hiện ở công cụ lao động dây 
chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do vậy, phương thức sản 
xuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ thuật cơ khí sang bán tự động 
và tự động và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện. 
 Nguyên nhân của bước quá độ này là do tác động của cuộc cách mạng khoa 
học và công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những lĩnh 
vực mũi nhọn được tập trung là kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu 
mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải dương. . . đã tạo ra những thành tựu mới 
và được chủ nghĩa tư bản. 
1. Hiện nay thế giới có khoảng 500000 người máy công nghiệp và được tập 
chung ở những nước tư bản phát triển. Tỷ lệ người máy trên một vạn dân của 
Thụy Điển là 8, Nhật Bản: 6, Mỹ: 2, Cộng hoà liên bang Đức: 1, 5 
2. Tỷ lệ này có sự khác nhau ở các nước. Chẳn hạn ở Pháp số công nhân làm 
việc trên máy hoàn toàn tự động chiếm 15, 7% tổng số công nhân trong các ngành 
công nghiệp. 
áp dụng một cách hiệu quả để tạo ra “ cái cốt vật chất” mới thay cho đại công 
nghiệp cơ khí. Vai trò khoa học ở đây rất to lớn. Nó đã thực sự phát huy tác dụng 
khi trở thành lực lượng sản xuất như C. Mác đã khẳng định, và ngày nay vai trò 
đó đã được đánh giá cao. Chẳng hạn theo đánh giá gần đây người ta cho rằng 
những đổi mới công nghệ đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, 
73% kinh tế của Anh va 76% kinh tế của Pháp và Cộng hoà liên bang Đức. 
Trong báo cáo số hai về nền kinh tế số hoá đang xuất hiện (công bố tháng 6- 
1999), Bộ thương mại Mỹ đã khẳng định khu vực công nghệ thông tin đã đóng 
góp tới 35% tăng trưởng kinh tế của Mỹ. 
2. 2 Sự biến đổi về cơ cấu lao động 
Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng có sự biến 
đổi cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao 
động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu sản xuất. Cho 
đến nay đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển đã đạt trình độ văn hoá chuyên 
môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi theo chiều hứơng tiến bộ và 
các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu qủa. 
-Về cơ cấu lao động : 
Lao động dịch vụ được tập trung cao 70-75%, đồng thời đội ngũ chuyên gia có 
tay nghề cao chủ yếu được tập trung ở khu vực này. Chẳng hạn ở Mĩ thập kỉ 80, tỉ lệ 
lao động “cổ trắng” và “ cổ xanh” là 50/32. Đồng thời xuất hiện lực lượng “công 
nhân cổ vàng”. Đó là cán bộ có trình độ chuyên môn đại học, trên đại học. Lực lượng 
lao động này đang ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển. 
Với nền sản xuất dần dần từng bước chuyển sang nền “ sản xuất tri thức”, vai 
trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Theo đánh giá của ngân hàng thế 
giới ởNhật Bản nguồn lực con người chiếm 81% trong tổng số các nguồn lực. Còn 
với Mĩ, Pháp, Đức, Italia lần lượt là 59%, 77%, 79%, 82%. 
Để đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước tư bản đã tăng cường đầu tư 
vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong những chương 
trình nghiên cứu các đề tài mang tính chiến lược, thực hiện cải cách giáo dục. . . 
-Về tái sản xuất sức lao động : 
Do sự đầu tư vào con người để làm tăng các yếu tố tái sản xuất sức lao động cả 
về vật chất lẫn tinh thần nhằm khơi dậy sự sáng tạo, phục vụ quá trình tái sản xuất tư 
bản chủ nghĩa trong điều kiện mới một cách tốt hơn nên tốc độ tăng trưởng kinh tế 
tăng, GDP bình quân đầu người cao, tuổi thọ bình quân và tỉ lệ người biết chữ tăng, 
điều đó biểu hiện ở chỉ số HDI tăng. Theo thống kê của LHQ, chỉ số HDI của các 
nước tư bản phát triển thập kỉ 90 khá cao, xấp xỉ 1. Chẳng hạn chỉ số HDI ở Nhật là 
0, 98 và Canada là 0. 989. 
Cùng với việc nâng cao trình độ nghề nghệp của người lao động, các nước tư 
bản đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của gía trị hàng hoá sức lao động, thực hiện 
nâng cao chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn, thông qua sự điều tiết kinh tế, can thiệp 
vào các điều kiện của quá trình tái sản xuất, đảm bảo các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, đi 
lại, học hành, vui chơi giải trí của bản thân và gia đình người lao động. Do đó xuất 
hiện tầng lớp trung lưu ( bao gồm cả những người công nhân “cổ trắng”, “cổ vàng” ). 
Ngoài việc thực hiện chính sách xã hội, như chính sách việc làm, bảo hiểm, trợ cấp 
thất nghiệp, trợ cấp gia đình đông con chăm sóc y tế người già, trẻ em, người tàn tật. . 
. nhà nước tư sản còn sử dụng các công cụ điều tiết giá cả, lạm phát, thuế, thực hiện 
điều tiết phân phối lạiđể ổn định tiền lương, thu nhập. Trong giai đoạn 1981 –1990, 
tỉ lệ lạm phát ở các nước tư bản phát triển trung bình 5, 5 % ( trong đó Mĩ 4, 5%, EU 
6, 6%, Nhật Bản 1, 9%), giai đoạn 1991-2000 tỉ lệ đó là 2, 2%, trong đó năm 1991 : 
4, 5%, 1998: 1, 4%, 1999:1, 1%. 
Sự quan tâm đến điều kiện tái sản xuất sức lao động của chủ nghĩa tư bản một 
mặt liên quan đến tiêu dùng có tính sản xuất và có thể nói nó cũng giống như sự 
quan tâm của nhà tư bản đến máy móc thiết bị, vì đó là tư bản và là tài sản của mình. 
Nhưng mặt khác xã hội càng văn minh thì buộc chủ nghĩa tư bản cũng phải sử dụng 
các phương pháp tinh tế trong việc giải quyết các quan hệ xã hội. Do đó không thể 
không quan tâm đến tài nguyên con người, nhân tố quyết định cuối cùng đến việc 
thắng hay thua đối thủ cạnh tranh. Đó là một tất yếu khách quan mà nhà nước với tư 
cách là người quản lí kinh tế và quản lí xã hội phải thực hiện. 
Có thể nói trong điều kiện thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà 
nước đã tăng cường điều tiết quá trình phân phối và phân phối lại. Vì vậy mặc dù về 
cơ bản người lao động cũng chỉ nhận được phần V, còn nhà tư bản hưởng phần m, 
song do quá trình điều tiết của nhà nước một phần nhỏ m cũng thuộc về người lao 
động dưới hình thức quĩ phúc lợi xã hội và được hưởng thụ thông qua việc tiêu dùng 
các giá trị sử dụng của công trình do quĩ phúc lợi xã hội mang lại. 
3. Sự biến đổi, điều chỉnh của quan hệ sản xuất 
3.1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu 
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư 
bản đã coc bước biến đổi hết sức to lớn với những biểu hiện quan trọng là : 
Hình thức sở hữu đa dạng : 
 - Có nhiều chủ thể cùng sở hữu tư liệu sản xuất trong một doanh nghiệp cổ phần 
voí những tỉ lệ khác nhau trong đó có cả những nhà tư bản lớn nhỏ và kể cả người 
lao động cũng đóng góp cổ phần để được hưởng lợi tức cổ phần. Chẳng hạn ở Thuỵ 
Điển có tới 21% dân cư có cổ phần trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên cần nhấn 
mạnh rằng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu cổ phiếu 
của người lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản 
sử dụng nhưmột công cụ trong quản lí để thu hút sự quan tâm của ngươì lao động vào 
quá trình sản xuất. Theo số liệu thống kê quốc tế toàn bộ cổ phần mà người lao động 
ở Mĩ có được chỉ chiếm khoảng 1% toàn bộ giá trị cổ phiếu. Ví dụ ở Mĩ một doanh 
nghiệp có số vốn hoạt động là 180 triệu USD, nhưng giá trị mỗi cổ phiếu bán ra cho 
người lao động chỉ là 2 USD. Như vậy người lao động có nắm nhiều cổ phiếu thế nào 
đi nữa cũng không đủ để giữ vị trí quan trọng trong công ty . 
Ngoài hình thứccổ đông hoá một cách rộng rãi trong các tầng lớp dân cư, hiện 
nay đã bước đầu xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự quản. Chẳng hạn nhà 
nước Mĩ đã “ quốc hữu hoá “ chi nhánh của GMC và giao cho công nhân tự quản còn 
nhà nước chỉ tham gia hỗ trợ thông qua chính sách vĩ mô. Điều này không có nghĩa là 
các nhà tư bản tự nguyện chuyển quyền sở hữu cho người lao động và càng không có 
nghĩa là “ cuộc cách mạng trong sở hữu tư liệu sản xuất “ ở thời đại ngày nay sẽ diễn 
ra theo cách tiến hoá như một số người đã và đang cố tình nhầm lẫn và với ý đồ muốn 
phê phán “ sự lỗi thời “ của chủ nghĩa Mác theo cách nghĩ của họ. 
 - Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, sở hữu không chỉ giới hạn trong việc sở hữu 
tư liệu sản xuất ( tức là sở hữu hiện vật) mà chủ yếu là sở hữu về mặt giá trị ( vốn ) 
dưới nhiều hình thức như vốn tự có, vốn cổ phần, vốn cho vay. Nếu như thời kì đầu 
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền 
quản lí gắn làm một trong một chủ sở hữu và khi xuất hiện tư bản cho vay đã làm hai 
quyền đó tách rời( tức là tư bản sở hữu tách rời tư bản chức năng ) thì trong chủ nghĩa 
tư bản ngày nay sự tách rời đó càng được đẩy mạnh và lao động quản lí đã trở thành 
một nghề, giám đốc thực hiện chức năng quản lí thông qua hợp đồng là thuê. Tuy 
nhiên ở đây không có nghĩa là nguyên lí về quyền sở hữu quyết định quyền quản lí, vì 
thế không còn giá trị, mà trái lại điều đó chỉ thể hiện sự biến thể do sự phát triển của 
phân công lao động xã hội ở trình độ mới, còn vai trò quyết định cuối cùng của người 
sở hữu vẫn không có sự thay đổi. 
Cùng với quá trình đó còn xuât hiện nhiều hình thức sở hữu khác, như sở hữu 
trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng công 
nghiệp, thông tin. Các hình thức này, nhất là sở hữu thông tin, đã ngày càng trở nên 
quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện đại và mang tính quyết định đối với sự 
tăng trưởng kinh tế. Bởi vì chính trí tuệ là nguồn gốc của việc sản sinh ra của cải xã 
hội. Rất nhiều nhà Khoa học, trong đó có Các Mác, đã khẳng định và đề cao vai trò 
của tri thức khoa học đối với sự phát triển kinh tế –xã hội giống như “ đôi đũa thần” 
làm giàu cho xã hội. 
 - Sở hữu tư nhân đã có sự biến đổi lớn, tính độc lập tương đối bị mất dần, thay 
vào đó là sở hữu hỗn hợp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh các nhà tư bản lớn đã 
từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào quĩ đạo hoạt 
động của mình dưới những hình thức khác nhau theo cơ chế “tham dự”. Các doanh 
nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh nhận thầu và thầu lại của các doanh nghiệp lớn mà 
các doanh nghiệp lớn đó thường là doanh nghiệp độc quyền được tổ chức lại trong 
một cơ cấu mới. Chẳng hạn Công ty GE một công ty hàng đầu thế giới của Mĩ về 
ngành điện dân dụng, đã tập hợp quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên (kể cả các hộ 
gia đình) với những mối liên kết ở mức độ khác nhau, thực hiện những chức năng 
khác nhau như sản xuất từng bộ phận chi tiết, đảm nhận từng công đoạn, từng khâu 
trong sản xuất, lưu thông qua việc nhận thầu, thầu lại theo những hợp đồng của công 
ty mẹ. 
Điều cần nhấn mạnh là mặc dù với “hệ thống tham dự mới” trong đó có sự tham gia 
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của các hộ gia đình và cả những người công nhân 
lao động làm thuê, song có thể nói đó chủ yếu là sự biến đổi trong cách thức tổ chức 
quản lí doang nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất của tư bản chứ không có nghĩa là 
người công nhân trở thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất, bởi vì giá trị cổ phiếu mà họ 
sở hữu là quá thấp so với giai cấp tư bản như đã nêu ở trên. Mặt khác với sở hữu đó 
người công nhân chưa trở thành người chủ sở hữu thực sự, mà chỉ mang tính hình 
thức nên chỉ là người bán sức lao động, chứ không phải vừa lao động, vừa quản lí 
theo hình thức tiểu chủ. Về mặt lí luận, cần phân biệt khi là chủ sở hữu thực sự thì 
phải có thực quyền chi phối cái mà mình sở hữu ( với những mức độ nhát định). 
Đồng thời cũng cần phân biệt về mặt lượng cũng như mối quan hệ biện chứng giữa 
lượng và chất. 
Ngoài ra nguồn gốc của gía trị cổ phiếu mà họ có là do tiền lương tiết kiệm 
được chứ không phải từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động của người khác, những 
phần tiết kiệm đó lại chỉ bù đắp ( thậm chí không đủ bù đắp) được phần mà họ mắc 
nợ do phải đứng ra mua chịu tư bản cố định gia đình do nhà nước đứng ra điều tiết. 
Trên thực tế giá trị của cái gọi là tư liệu sản xuất mà họ sở hữu nằm trong hệ thống 
quản lí ngân hàng và sự khống chế của tư bản tài chính chứ họ không có quyền tự do 
sử dụng theo ý riêng của mình. 
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhưng không còn độc quyền thuần tuý 
mà là dạng hỗn hợp và dưới hình thức sở hữu của các công ty xuyên quốc gia, hoặc 
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tư bản tài chính. 
Đây là hình thức vận động rất mới mẻ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa 
mà ở thời Lênin mối chỉ có mầm mống. 
+Về hình thức sở hữu độc quyền xyên quốc gia 
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy mạnh hơn nữa, dưới tác động của 
qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, cùng với những điều kiện quốc tế hoá 
sản xuất, tư bản và thông tin, các tổ chức độc quyền quốc gia đã vượt biên giới quốc 
gia, thực hiện kinh doanh quốc tế dưới nhiều hình thức và trở thành các công ty 
xuyên quốc gia. 
Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này đã thực hiện sự liên kết để 
bành trướng thế lực và khai thác tiềm năng của nước chủ nhà. Thông qua con đường 
đó các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn, trí tuệ 
quốc tế, tạo ra nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp mang tính quốc tế hoá. Hiện nay trên 
70% các xí nghiệp chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia là các xí nghiệp liên 
doanh với tỉ lệ vốn góp khác nhau, ít nhất là 2và thông thường có 3-4 chủ sở hữu 
trong một xí nghiệp. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia thường tồn tại dưới dạng 
concern và CM(conglomerate) mà concern và CM là những tổ hợp đa ngành với 
những mức độ khác nhau. Điều đó phản ánh tính đa dạng, phức tạp và tính hỗn hợp 
và sở hữu xuyên quốc gia. 
Có thể nói hiệ tượng đa quốc gia hoá trong sở hữu ở các xí nghiệp chi nhánh 
của các công ty xuyên quốc gia đã trở thành phổ biến, làm cho tính hỗn hợp của sở 
hữu tăng lên mạnh mẽ. 
Hình thức sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp và đã 
được quốc tế hoá. Đó cũng chính là hình thức sở hữu mang tính khách quan do các 
tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dưới hình thức quốc tế trong điều kiện của 
chủ nghĩa tư bản, nhất là trong thời đại ngày nay. 
+Về hình thức sở hữu tư bản tài chính 
Tư bản tài chính là hình thức hỗn hợp về tư bản giữa tư bản công ngiệp và tư 
bản ngân hàng do quá trình tích tụ sản xuất dẫn tới. Ngày nay mặc dù hạt nhân của nó 
không thay đổi, nhưng tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các 
ngành sản xuất, lưu thông và cơ cấu tổ chức của mình, hình thành nên một cơ cấu 
mang tính hỗn hợp, trước hết về mặt sở hữu. Lênin khẳng định : tư bản tài chính bao 
giờ cũng có tính quốc tế hoá trong mọi hoạt động. Ngày nay đặc tính ấy biểu hiện rất 
rõ rệt và mang tính phổ biến. Đó là trường hợp khá điển hình về sự phát triển những 
đặc tính vốn có của độc quyền và cũng là trương hợp điển hình về tính hỗn hợp và 
tính quốc tế hoá của hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư bản đương đại –kế thừa và 
phát triển đặc tính của nó ở giai đoạn trước –giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh 
tranh thống trị. 
+Hình thức sở hữu độc quyền nhà nước 
Xét về bản chất giai cấp của nhà nước tư sản, sở hữu nhà nước chính là sở hữu 
của tư bản tập thể. Điều này đúng như nhận xét của Ăng ghen rằng nhà nước tư sản là 
nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lí tưởng và nhà nước ấy càng 
chyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại biến thành 
nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu. 
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành thông qua nhiều con đường khác 
nhau trong đó có quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản tư nhân, xây dựng mới bằng 
việc chi ngân sách nhà nước, góp vốn cổ phần và mua lại một phần xí nghiệp tư bản 
tư nhân trong trường hợp cần thiết. Song ngay trong trường hợp quốc hữu hoá hoặc 
xây