1.1 Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
Thuỷ sản là loại thực phẩm được người tiêu dùng trên thế giới ưa thích sử dụng. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản phụ thuộc khá chặt chẽ vào thu nhập, khi thu nhập tăng lên người tiêu dùng có xu hướng tiêu dùng các sản phẩm thuỷ sản nhiều hơn các loại thực phẩm khác. Thuỷ sản được sản xuất và tiêu dùng ở hầu hết các nước trên thế giới nhưng sản lượng thuỷ sản hiện nay tập trung chủ yếu ở các nước Trung Quốc, Pêru, Chilê, Nhật, Mỹ. Khác với nhiều mặt hàng thực phẩm khác, thuỷ sản là mặt hàng mang tính thương mại quốc tế khá cao. Trong thương mại thế giới, giá trị buôn bán mặt hàng thuỷ sản chiếm khoảng gần 10% trong tổng giá trị thương mại hàng hoá.
Sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở chủ động tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại, tích cực đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xây dựng một nền kinh tế hướng về xuất khẩu. Từ nhiều năm qua, các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nói chung và sản phẩm của Công ty cổ phần Cafatex nói riêng không ngừng được phát triển cả về số lượng, chủng loại, sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu, trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và chiếm giữ vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam còn nhiều bất cập với yêu cầu phát triển. Chẳng hạn, các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm đông lạnh, giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu thấp.Tất cả những vấn đề đó xuất phát từ những vấn đề chủ yếu như trình độ công nghệ trong khai thác, nuôi trồng và chế biến chưa được phát triển tốt, do đó chưa tạo ra được những sản phẩm chế biến có chất lượng cao cho thị trường xuất khẩu, thiếu tính đồng bộ trong hệ thống chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính bảo hộ ở các thị trường xuất khẩu lại cao. Với xu thế đó, bài nghiên cứu “Phân tích họat động xuất khẩu tại Công ty Cổ phần thủy sản Cafatex” được thực hiện nhằm giúp doanh nghiệp đánh giá đúng thực trạng của mình và nhằm để đẩy mạnh xuất khẩu trong xu thế hội nhập là rất cần thiết không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển của doanh nghiệp hiện nay mà còn bởi những thôi thút đòi tăng tích luỹ vốn, tăng thu ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu đang tăng mạnh để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá theo hướng xuất khẩu của chính ngành thuỷ sản cũng như của cả nền kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung: Tìm hiểu và phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty cổ phần thủy sản Cafatex qua các năm 2004-2006 để tìm ra sự biến động và nguyên nhân của sự biến động để có biện pháp giải quyết kịp thời để nâng cao sản lượng cũng như giá trị hàng thủy sản
1.2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích chung về tình hình hoạt động của công ty qua 3 năm 2004-2006.
- Phân tích kim ngạch xuất khẩu theo thị trường và theo sản phẩm để phát hiện ra thị trường chủ lực và sản phẩm chủ yếu.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu.
- Đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn của công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu:
- Việc phân tích thị trường xuất khẩu tác động như thế nào đến doanh nhiệp?
- Những vấn đề mà doanh nghiệp đang băn khoăn hiện nay là gì: nguồn nguyên liệu, lao dộng, kĩ thuật, công nghệ, trình độ quản lý ?
- Doanh nghiệp cần đưa ra những giải pháp nào để tăng cường sức cạnh tranh cũng như uy tín trên thương trường quốc tế?
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Không gian: bài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở những thông tin, số liệu tại Công ty cổ phần thủy sản Cafetex.
1.4.2 Thời gian: Các số liệu cần phân tích được tổng hợp qua 3 năm 2004-2006. Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 11/02/2008 đến ngày 24/05/2008.
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Công ty như tôm đông block, cá đông block.
- Những thị trường chính mà Công ty xuất sang.
- Các yếu tố làm ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu.
1.5 Lược khảo tài liệu.
- Phân tích tình hình kinh doanh xuất khẩu và các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản tại Công ty hải sản 404 qua 3 năm 2004-2006, tác giả Trương Cẩm Tú – Lớp Ngoại thương 2 K29. Nội dung: phân tích tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Công ty qua các năm, phân tích các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu như: nhu cầu, thói quen tiêu dùng của nước nhập khẩu, luật pháp, tình hình cạnh tranh, và các nhân tố bên trong như vấn đề nguồn nguyên liệu, máy móc thiết bị, trình độ công nhân viên, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước để tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm phát triển của Công ty trong những năm qua và đề ra các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động này trong tương lai.
- Lập kế hoạch kinh doanh cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Anh năm 2007, tác giả Mai Hồng Quang – Lớp QTKDTH K29. Nội dung: phân tích tình hình của Công ty qua các năm 2004-2006, các nhân tố ảnh hưởng đến Công ty, sử dụng các phương pháp dự báo, ma trận SWTO để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức nhằm giúp cho Công ty có những biện pháp để phản ứng tốt trước những thay đổi của môi trường kinh doanh.
77 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2905 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hoạt động xuất khẩu tại công ty cổ phần thủy sản CAFATEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1 Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
Thuỷ sản là loại thực phẩm được người tiêu dùng trên thế giới ưa thích sử dụng. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản phụ thuộc khá chặt chẽ vào thu nhập, khi thu nhập tăng lên người tiêu dùng có xu hướng tiêu dùng các sản phẩm thuỷ sản nhiều hơn các loại thực phẩm khác. Thuỷ sản được sản xuất và tiêu dùng ở hầu hết các nước trên thế giới nhưng sản lượng thuỷ sản hiện nay tập trung chủ yếu ở các nước Trung Quốc, Pêru, Chilê, Nhật, Mỹ. Khác với nhiều mặt hàng thực phẩm khác, thuỷ sản là mặt hàng mang tính thương mại quốc tế khá cao. Trong thương mại thế giới, giá trị buôn bán mặt hàng thuỷ sản chiếm khoảng gần 10% trong tổng giá trị thương mại hàng hoá.
Sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở chủ động tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại, tích cực đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xây dựng một nền kinh tế hướng về xuất khẩu. Từ nhiều năm qua, các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nói chung và sản phẩm của Công ty cổ phần Cafatex nói riêng không ngừng được phát triển cả về số lượng, chủng loại, sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu, trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và chiếm giữ vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam còn nhiều bất cập với yêu cầu phát triển. Chẳng hạn, các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm đông lạnh, giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu thấp....Tất cả những vấn đề đó xuất phát từ những vấn đề chủ yếu như trình độ công nghệ trong khai thác, nuôi trồng và chế biến chưa được phát triển tốt, do đó chưa tạo ra được những sản phẩm chế biến có chất lượng cao cho thị trường xuất khẩu, thiếu tính đồng bộ trong hệ thống chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính bảo hộ ở các thị trường xuất khẩu lại cao. Với xu thế đó, bài nghiên cứu “Phân tích họat động xuất khẩu tại Công ty Cổ phần thủy sản Cafatex” được thực hiện nhằm giúp doanh nghiệp đánh giá đúng thực trạng của mình và nhằm để đẩy mạnh xuất khẩu trong xu thế hội nhập là rất cần thiết không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển của doanh nghiệp hiện nay mà còn bởi những thôi thút đòi tăng tích luỹ vốn, tăng thu ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu đang tăng mạnh để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá theo hướng xuất khẩu của chính ngành thuỷ sản cũng như của cả nền kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung: Tìm hiểu và phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty cổ phần thủy sản Cafatex qua các năm 2004-2006 để tìm ra sự biến động và nguyên nhân của sự biến động để có biện pháp giải quyết kịp thời để nâng cao sản lượng cũng như giá trị hàng thủy sản
1.2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích chung về tình hình hoạt động của công ty qua 3 năm 2004-2006.
- Phân tích kim ngạch xuất khẩu theo thị trường và theo sản phẩm để phát hiện ra thị trường chủ lực và sản phẩm chủ yếu.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu.
- Đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn của công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu:
- Việc phân tích thị trường xuất khẩu tác động như thế nào đến doanh nhiệp?
- Những vấn đề mà doanh nghiệp đang băn khoăn hiện nay là gì: nguồn nguyên liệu, lao dộng, kĩ thuật, công nghệ, trình độ quản lý ?
- Doanh nghiệp cần đưa ra những giải pháp nào để tăng cường sức cạnh tranh cũng như uy tín trên thương trường quốc tế?
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Không gian: bài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở những thông tin, số liệu tại Công ty cổ phần thủy sản Cafetex.
1.4.2 Thời gian: Các số liệu cần phân tích được tổng hợp qua 3 năm 2004-2006. Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 11/02/2008 đến ngày 24/05/2008.
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Công ty như tôm đông block, cá đông block.
- Những thị trường chính mà Công ty xuất sang.
- Các yếu tố làm ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu.
1.5 Lược khảo tài liệu.
- Phân tích tình hình kinh doanh xuất khẩu và các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản tại Công ty hải sản 404 qua 3 năm 2004-2006, tác giả Trương Cẩm Tú – Lớp Ngoại thương 2 K29. Nội dung: phân tích tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Công ty qua các năm, phân tích các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu như: nhu cầu, thói quen tiêu dùng của nước nhập khẩu, luật pháp, tình hình cạnh tranh, … và các nhân tố bên trong như vấn đề nguồn nguyên liệu, máy móc thiết bị, trình độ công nhân viên, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước để tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm phát triển của Công ty trong những năm qua và đề ra các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động này trong tương lai.
- Lập kế hoạch kinh doanh cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Anh năm 2007, tác giả Mai Hồng Quang – Lớp QTKDTH K29. Nội dung: phân tích tình hình của Công ty qua các năm 2004-2006, các nhân tố ảnh hưởng đến Công ty, sử dụng các phương pháp dự báo, ma trận SWTO để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức nhằm giúp cho Công ty có những biện pháp để phản ứng tốt trước những thay đổi của môi trường kinh doanh.
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp luận
2.1.1 Khái niệm và vai trò của xuất khẩu.
* Khái niệm:
Nói đến xuất khẩu nghĩa là bán hàng ra nước ngoài. Hầu như bất kỳ quốc gia nào cũng đều có tổ chức hoạt động xuất khẩu. Vì một đất nước muốn phát triển tất yếu phải có sự giao lưu và hợp tác quốc tế, điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các quốc gia nghèo và các quốc gia đang phát triển. Có như thế quốc gia đó mới đuổi kịp các nước trên thế giới về trình độ khoa học công nghệ, cũng như về văn minh văn hóa, và tiến bộ xã hội, … để phát triển đất nước. Một quốc gia được coi là phát triển trước hết phải là một quốc gia có nền kinh tế phát triển về mọi mặt và trên nhiều phương diện. Xuất khẩu là một trong những mặt có tầm quan trọng to lớn quyết định đến sự hưng thịnh của một nền kinh tế. Xuất khẩu không chỉ đem lại nguồn lợi cho chính quốc gia xuất khẩu mà nó còn mang đến cho người dân các nước hưởng được những lợi ích mà đất nước họ không có.
Như vậy có thể nói xuất khẩu là một công cụ hay nói khác hơn là một hình thức hoạt động giao lưu thương mại nhằm dung hoà lợi ích của mọi người trên thế giới. Với ý nghĩa đó, xuất khẩu được hiểu trước hết đó là một hình thức trao đổi hàng hoá dịch vụ trên thị trường mà thị trường được nói ở đây là thị trường thế giới nhằm đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của một quốc gia không thể tự đáp ứng cho chính mình, đồng thời phát huy hết nội lực kinh tế và mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia xuất khẩu trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Như vậy xuất khẩu là một hình thức kinh doanh nhằm thu được doanh lợi từ việc bán hàng hoá dịch vụ ra thị trường nước ngoài.
* Vai trò:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ cho công cuộc Công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Công nhiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công ngiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn đầu tư rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể từ các nguồn như: xuất khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch dịch vụ, xuất khẩu sức lao động,…Các nguồn vốn nước ngoài, vay nợ và viện trợ…tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên, nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu - nguồn vốn chủ yếu để trả nợ - trở thành hiện thực.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Đó là thành quả của sự vận dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho ngành sản xuất nguyên liệu như bông, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu…Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè…có thể sẽ kéo theo sự phát triển ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sẩn xuất phát triển và ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước luôn thích nghi được với thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường.
- Tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô và tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể các hoạt động kinh tế có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện cho các quan hệ này phát triển. Ví dụ như xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế ...Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề cho hoạt động sản xuất.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
2.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
- Đặc điểm của thị trường: những thông tin về những nét văn hoá và thị hiếu tiêu dùng của thị trường.
- Quy chế chính sách của thị trường xuất khẩu.
+ Thuế quan: Thuế quan là một khoản tiền mà chủ hàng hoá xuất nhập khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan đại diện cho nước chủ nhà. Kết quả của thuế quan là làm tăng chi phí của việc đưa hàng hoá đến một nước.
+ Hạn ngạch: Hạn ngạch nhập khẩu nghĩa là số lượng hàng hoá hoặc giá trị hàng hoá mà chính phủ một nước quy định nhập khẩu nói chung hoặc từ một quốc gia cụ thể nào đó trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
Hạn ngạch tuyệt đối: Giới hạn tối đa về số lượng hoặc giá trị hàng hóa được phép nhập khẩu nói chung hoặc từ một quốc gia cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Hạn ngạch thuế quan: Giới hạn tối đa về số lượng hoặc giá trị hàng hóa được phép nhập khẩu được hưởng thuế quan ưu đãi, nếu số lượng hoặc giá trị hàng hóa vượt qua ngưỡng tối đa này sẽ chịu mức thuế quan cao.
Thường những giới hạn này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một công ty hay cá nhân. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hóa đó chỉ được nhập khẩu từ thị trường với tổng số lượng và thời gian đã định.
+ Hạn chế xuất khẩu tự nguyện:
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restrains – VERs) là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước nhập khẩu. Ví dụ như việc Nhật Bản hạn chế xuất khẩu ô tô sang Mỹ kể từ năm 1981.
VERs nói chung được đưa ra theo yêu cầu của nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận nhằm chặn trước những hạn chế mậu dịch khác.
VERs có những lợi thế chính trị và pháp lý nhất định nên trong những năm gần đây chúng trở thành những công cụ rất được ưa dùng trong chính sách ngoại thương.
+ Hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn công nghệ, lao đông, về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, …
Vận dụng thỏa thuận về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Technical Barries to Trade - TBT) và “Những ngoại lệ chung” trong WTO, các nước còn đưa ra những tiêu chuẩn mà có thể hàng hóa sản xuất nội địa dễ dàng đáp ứng hơn hàng hóa nhập khẩu, như các quy định về công nghệ, quy trình sản xuất, về an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường, …
+ Chính sách ngoại thương:
Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã được xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một nước trong một thời kỳ nhất định.
Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế của một đất nước, nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.
Mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kỳ có khác nhau cho nên đường lối chính sách ngoại thương phải thay đổi để đạt được những mục têu cụ thể của chính sách kinh tế. Không có chính sách ngoại thương áp dụng cho mọi thời kỳ phát triển kinh tế. Tuy nhiên các chính sách ngoại thương đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành trướng ra bên ngoài.
Mỗi nước đều có những đặc thù chính trị, kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế, vì vậy mỗi nước đều có chính sách phát triển ngoại thuơng riêng với các biện pháp cụ thể.
+ Nguyên tắc Tối huệ quốc MFN (Most Favoured Nation):
Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) là biểu hiện của việc “không phân biệt đối xử” trong quan hệ mậu dịch giữa các nước. Nó có nghĩa là các bên tham gia trong quan hệ kinh tế buôn bán sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã hoặc sẽ dành cho nước khác.
Nguyên tắc này được hiểu theo hai cách:
( Thứ nhất: Tất cả những ưu đãi và miễn giảm mà một bên tham gia trong các quan hệ kinh tế – thương mại quốc tế đã hoặc sẽ dành cho bất kỳ một nước thứ ba nào thì cũng được giành cho bên tham gia kia được hưởng một cách không điều kiện.
( Thứ hai: Hàng hóa di chuyển từ một bên tham gia trong các quan hệ kinh tế – thương mại này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia sẽ không phải chịu mức thuế và các phí tổn cao hơn, không bị chịu những thủ tục phiền hà hơn so với hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác. Theo luật pháp quốc tế thì điều chủ yếu của quy chế Tối huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc quyền mà là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế.
+ Thuế quan ưu đãi phổ cập GSP (Generalized Sustem of Preference)
Nghiên cứu chế độ Tối huệ quốc cần phải nghiên cứu chế độ MFN đặc biệt giành cho các nước chậm tiến và đang phát triển thông qua chế độ ưu đãi phổ cập GSP.
GSP là hệ thống ưu đãi về thuế quan do các nước công nghiệp phát triển dành cho 1 số sản phẩm nhất định mà họ nhập khẩu từ các nước đang phát triển (gọi là các nước nhận ưu đãi).
Nội dung chính của chế độ GSP là:
( Giảm thuế hoặc miễn thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước đang hoặc kém phát triển.
( GSP áp dụng cho các loại hàngcông nghiệp thành phẩm hoặc bán thành phẩm và hàng loạt các mặt hàng công nghiệp chế biến.
( Quy định đối với hàng hóa được hưởng chế độ GSP: Không phải bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu vào các nước cho hưởng từ các nước được hưởng đều được giảm hay miễn thuế theo GSP. Để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi GSP, hàng nhập khẩu vào những nước cho hưởng phải thỏa mãn 3 điều kiện như sau:
+ Điều kiện xuất sứ từ nước được hưởng.
+ Điều kiện về vận tải (Ví dụ: hàng vận chuyển không qua lãnh thổ nước thứ ba hoặc không qua mua bán, tái chế lại).
+ Điều kiện về giấy chứng nhận xuất sứ.
- Đối thủ cạnh tranh: là những doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động sản xuất kinh doanh cùng loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Đối thủ cạnh tranh gồm có: đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tương lai, đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp.
- Thị trường nguyên liệu: là nơi diễn ra hoạt động mua bán nguyên liệu, cung cấp cho các doanh nghiệp nguyên liệu sản xuất sản phẩm.
- Chính sách, kế hoạch phân phối sản phẩm của công ty.
2.1.3 Khái niệm và vai trò của vai trò của thị trường.
* Khái niệm:
Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ cũng như của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá. Đó là những mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của từng loại hàng hoá cụ thể.
Thị trường là nơi mà người mua và người bán tìm đến với nhau thông qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lấy lời giải đáp mà mỗi bên cần biết.
Các doanh nghiệp thông qua thị trường mà tìm cách giải quyết các vấn đề:
Phải sản xuất loại hàng gì? Cho ai?
Số lượng bao nhiêu?
Mẫu mã, kiểu cách, chất lượng như thế nào?
Còn người tiêu dùng thì biết được
Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình?
Nhu cầu được thoả mãn như thế nao?
Khả năng thanh toán ra sao?
Tất cả những câu hỏi trên chỉ có thể được trả lời chính xác thông qua thị trường. Trong công tác quản lý kinh tế, xây dựng kế hoạch mà không dựa vào thị trường để tính toán và kiểm chứng số cung - cầu thì kế hoạch sẽ không có cơ sở khoa học và mất phương hướng, mất cân đối. Ngược lại việc tổ chức và mở rộng thị trường mà thoát ly khỏi sự điều tiết của công cụ kế hoạch hoá thì tất yếu sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong hoạt động kinh doanh.
Từ đó ta thấy rằng: sự nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan, duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược lại với các hệ thống của quy luật kinh tế vốn đã có sẵn trong thị trường và hậu quả cuối cùng của nó là sẽ làm cho nền kinh tế rất khó phát triển.
Trên thị trường các quyết định của người lao động, người tiêu dùng và của các doanh nghiệp đều tác động đến quan hệ cung cầu thông qua giá cả. Tuy nhiên, hiện nay ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường, tác động đến quan hệ cung cầu theo cơ chế gián tiếp còn có các quyết định của chính phủ từng nước.
* Vai trò của thị trường
Thị trường có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường giá cả hàng hoá về tư liệu sản xuất, các nguồn lực về tư liệu sản xuất, sức lao động, … luôn luôn biến động nhằm đảo bảo các nguồn lực giới hạn này được sử dụng để sản xuất đúng hàng hoá, dịch vụ mà xã hội có nhu cầu. Thị trường là khách quan do đó từng doanh nghiệp không có khả năng làm thay đổi thị trường. Nó phải dựa trên cơ sở nhận biết nhu cầu xã hội và thế mạnh kinh doanh của mình mà có phương án kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường.
* Đo lường và dự báo nhu cầu của thị trường
Các nhà quản trị của công ty thường nói đến dự báo, ước tính, dự đoán, chỉ tiêu tiêu thụ và hạn