Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng
Việt Nam đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử
dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của
chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền
tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều
trở ngại trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế
trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ
theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều
hàh chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có
những bất cập là điều khó tránh khỏi.
Bài viết này tập trung phân tích nội dung các công cụ, thực trạng điều hành chính sách tiền
tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, kinh nghiệm thực hiện chính sách tiền tệ trên thế giới
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích nội dung các công cụ, thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích nội dung các công cụ, thực
trạng điều hành chính sách tiền tệ ở
Việt Nam trong thời gian qua
Lời nói đầu
Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng
Việt Nam đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử
dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của
chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền
tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều
trở ngại trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế
trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ
theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều
hàh chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có
những bất cập là điều khó tránh khỏi.
Bài viết này tập trung phân tích nội dung các công cụ, thực trạng điều hành chính sách tiền
tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, kinh nghiệm thực hiện chính sách tiền tệ trên thế giới
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ.
Chương 1:
Lý luận chung về chính sách tiền tệ
và các công cụ của nó
1. Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.1. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với chính sách tiền tệ
Lịch sử ra đời NHTƯ ở các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Điều đó
tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước. Song lý do
tương đối phổ biến là xuất phát từ yêu cầu can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực tiền
tẹe, tìn dụng và ngân hàng. Dù vôứi tên gọi khác nhau (NHTƯ, NHNN, Hệ thống dự
trữ lên bang...), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy
quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá
trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của
toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất
nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh hồn” của
NHTƯ trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ trong nền kinh tế
thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các
mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTƯ thường không can thiệp và không ra lệnh
trực tiếp vào các quyết địng tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ uếy sử dụng
các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh
của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, mặt bằnh lãi suất, khối lượng tiền
cung ứng, tỷ giá... để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTƯ phải hình thành và sử dụng hệ thống công cụ
của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTƯ khả năng tác
động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh
hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTƯ nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự
chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh giữa các
ngân hàng.
1. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương (NHTƯ)
thông qua các hoat động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông
nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ
cũng có những điểm khác biệt. Xét về mặt tổng thể chính sách tiền tệ của các quốc gia
trên thế giới hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:
Đảm bảo tăng trưởng kinh tế thực tế. Đây là mục tiêu quan trọng nhất, mục tiêu bao
trùm để giải quyết các mục tiêu khác.
Hướng tới việc ổn định giá cả và ổn định tiền tệ.
Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cân bằng cán cân thanh toán.
Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại mâu thuẫn
nhau. cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt giảm nhất định đối
với mục tiêu khac. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ phải chấp nhận nạn thất
nghiệp tăng lên... Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục tiêu nào là chính mà người ta có
thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định giá cả, chính sách tạo việc làm, chính
sách cân bằng cán cân thanh toán hay chính sách tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTƯ phải xác định các
mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTƯ sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể xét đoán
nhanh chóng được tình hình hoạt đoọng của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng,
hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Mục tiêu
trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng
tiền.
Xét cho cùng NHTƯ có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình
thực tiễn của nền kinh tế
Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế
lạm phát.
2. Các công cụ chính sách tiền tệ và ưu nhược điểm của nó
Để việc nghiên cứu và phân tích thuận lợi chúng ta chia các công cụ chính sách tiền tệ
thành các công cụ trực tiếp và các công cụ gián tiếp.
2.1. Các công cụ trực tiếp
2.1.1. Lãi suất tiền gửi và cho vay
NHTƯ có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông
qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều
tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay., ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh
tín dụng. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kich
thích các nhá đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTƯ sẽ ấn định mức lãi suát
cao.
Tuy nhiên biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh
doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng nhưng lại thiếu vốn
đầu tư. Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối
ưu để cho vay, nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm.
Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ
chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường.
2.1.2. Hạn mức tín dụng
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép
NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời
gian nhất định và sau đó tìm đường để đưa nó vào trong nền kinh tế. Khi NHTƯ xác
định hạn mức tín dụng thì căn cứ vào các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng kinh tế; biến
động của chỉ số giá cả; biến động của tỷ giá; tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế; bội chi
ngân sách. Hạn mức tín dụng sẽ đặc biệt phát huy tác dụng trong nền kinh tế có lạm
phát. Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến đổi không ngừng, biện
pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
Biện pháp này bộc lộ khá nhiều nhược điểm. nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các
NHTM, có tính chất đánh đồng các hoạt động tốt và hoạt động yếu. Trong thực tế,
doanh số cho vay hoặc tồn tại dư nợ của các NHTM thông thường thấp hơn hạn mức
tín dụng vì có NHTM huy động vốn tốt thì sử dụng hết hạn mức tín dụng còn những
ngân hàng hoạt động yếu kém thì không sử dụng hết hạn mức này, đặc biệt khi hệ
thống ngân hàng hoạt động chưa tốt thì con số thực tế cho vay của NHTM khác nhiêù
so với con số dự kiến, từ đó không phát huy được vai trò quản lý của NHTƯ. Biện
pháp này có thể làm sai lẹch cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế bởi với hạn mức tín dụng
được NHTƯ qui địng thì các NHTM sẽ tìm đến dự án đầu tư lớn, những lĩnh vực đàu
tư dễ sinh lợi nhuận gây ra khó khăn vốn trong các doanh nghiệp nhỏ.
2. 2. Các công cụ gián tiếp
2.2.1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là khoản tiền gửi của các NHTM ở NHTƯ, mức tiền gửi này do pháp
luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân hàng. Thông qua
viẹc thay đổi muúc dự trữ bắt buộc NHTƯ tác động tới việc cung cấp tiện tệ cho nền
kinh tế quốc dân. Nếu NHTƯ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thì khả năng tín dụng của
NHTM sẽ giảm xuống. Mặt khác, để bù lại phần lãi suất đó (do quỹ tiền gửi NHTƯ
không được tính lãi) các ngân hàng phải tăng lãi suất tín dụng do vậy mức tín dụng
cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm xuống. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ dự trữ bắt
buộc sẽ làm giảm hoặc tăng lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tiền
của hệ thống ngân hàng. Vì vậy đó là một công cụ tiềm tàng của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra dự trữ bắt buộc còn đảm bảo việc thanh toán thường xuyên của các NHTM.
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có
tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt buộc không
được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến hiện tượng phi
trung gian hoá. Mặt khác bự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực
hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt
buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc
cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng
thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính
vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.
2.2.2. Lãi suất chiết khấu
Chính sách lãi suất chiết khấu là chính sách NHTƯ cho các NHTM vay dưới nhiều
hình thức tái chiét khấu túc là hình thức NHTƯ tái cáp vốn cho các NHTM. Khi
NHTƯ nâng lãi suất chiết khấu túc là hạn chế cho vay đối với các NHTM, khả năng
cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng nghĩa với việc lượng tiền
cung ứng giảm. Ngược lại khi lãi suát tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ
có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn củaNHTƯ, bởi vậy
NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản
lượng.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ có
giánên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nopự tương đối chắc chắn,
tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường. nó cũng
giúp NHTƯ thực hiện người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài
chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống
ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức
được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác
dụng thông báo ý định của NHTƯvvề chính sách tiền tệ trong tương lai.
Việc sử dụng chính sách tiần tệ ít được khuyến cáo, vì nó có hai nhược điểm chính sau:
thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTƯ ở vào thế bị động, NHTƯ có thể thay đổi lãi suất
tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay; thứ hai khi MHTƯ ấn định
mức lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đấy sẽ xảy ra những biến động lớn
trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì lãi suất vay thay đổi,
dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó
trong cung ứng tiền tệ, NHTƯ khó có thể đảo ngược những thay đổi trong lãi suất chiết
khấu.
2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở
Thực chất của hoạt động này là việc NHTƯ mua và bán các giấy tờ có giá (như cổ
phiếu, trái khoán, công trái...) trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực hạn chế nhất
định cả tren thị trường vốn. Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi
suất hấp dẫn, NHTƯ thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời
khả năng cho vay của các NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại,
bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTƯ cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm
gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn cuả các
giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân
bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy
tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM.
Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm
hơn hẳn so với các công cụ khác:
Phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTƯ trong đó NHTƯ hoàn toàn kiểm soát
được khối lượng giao dịch.
Là công cụ linh hoạt giúp NHTƯ luôn luôn thay đổi được tình thế của mình khi
mắc phải sai lầm.
Nghiệp vụ này có thể sử dụng được ở bất kì một mức độ nào khi có yêu cầu căn cứ
vào khối lượng cacs loại giấy tờ có giá bán ra.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt
hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTƯ mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ thuộc vào
người mua bán (các NHTM). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải có sự phát
triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu thông phần
lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính phải tương đối phát
triển.
3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới
Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá
hối đoái; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ; chính sách tiền tệ có mục
tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn chứ không công khai.
Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài. Đó là việc
ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của một quốc gia
khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị của đồng nội tệ
theo giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương pháp này rất đơn giản
rõ ràng và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm soát thông qua đồng
ngoại tệ được chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng thành công chính sách này
như Anh, Pháp (sau khi gắn đồng tiền của nó vào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó
cung có những mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ;
do có sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu tư không lường hết được mọi sự rủi ro
và làm dòng vốn đổ vào tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là
một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc
khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách
tiền tệ đã quá bành trướng nhung đến khi NHTƯ nhận ra thì đã muộn.
Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHTƯ có thể chọn
một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động của sản
lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lạp tức cho cả công chúng và
thị trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm
chính sách trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không thành công
tong việc kiểm soát vì việc theo đuổi chính sách này không được chặt chẽ và mối
liên hệ không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát.
Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như là một chính sách tiền
tệ chính của NHTƯ Châu Âu.
Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện
theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính
sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc
đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao.
NHTƯ có trách nhiệm công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp
thông tin cho công chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như
các nhà chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính không chắc chắn của chính sách
tiền tệ, lãi suất và lạm phát. Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là
nó làm tăng tính trách nhiệm của NHTƯ.
Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã
nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền
tệ sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm
phát xuất hiện, NHTƯ cần phải hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra
chính sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là
sự thành công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm
quan trọng của chiến lược náy là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn
nhất là nó phụ thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những
người có trách nhiệm trong NHTƯ. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược
hoạt đông không tốt trong tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng
của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm là
điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong
muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia.
Chương 2
Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ
ở Việt Nam
1. Bối cảnh chung
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những
bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa
định hướng chính sách tiền tệ.
Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành (pháp lệnh về Ngân
hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng – Công ty tài chính), hệ
thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức
năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của
các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế
thị trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính
sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành phần
kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện chính
sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lạm
phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản
lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy
hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng
gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng
quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ
chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn
thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền
Việt Nam.
Đến tháng 10 - 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân
hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các t