Với vai trò là hạ tầng cơ sở cho nền kinh tế, từ khi ra đời cho đến nay Bưu chính –Viễn thông Việt Nam luôn luôn là mạch máu, là hệ thống thần kinh của Đảng, của Nhà nước, của chính quyền các cấp. Hơn thế nữa, đó chính là công cụ phục vụ cho các hoạt động kinh tế xã hội và là đời sống tinh thần vô cùng phong phú của mọi tầng lớp nhân dân. Với mục tiêu ngày càng phát triển, Bưu chính –Viễn thông Việt Nam đã và đang chuyển mình xây dựng cơ sổ vật chất hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Hiện nay, Bưu chính- Viễn thông Việt Nam đã thành công trong giai đoạn tăng tốc và chuyển sang giai đoạn cạnh tranh và hội nhập.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, để hoạt động có hiệu quả việc phân tích tài chính đóng một vai trò hết sức quan trọng vì nó là cơ sở ø giúp các nhà quản lý ra những quyết định tài chính đúng đắn. Việc thu thập, phân tích, xử lý, đánh giá những thông tin bổ ích về hoạt động tài chính chứa đựng trong các báo cáo quyết toán có ý nghĩa sống còn đối với bất kỳ tổ chức kinh tế nào.
Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích to lớn của việc phân tích tài chính, em đã chon đề tài “Phân tích tình hình tài chính Bưu Điện tỉnh Bạc Liêu” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn được chia làm 4 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung
Chương II: Giới thiệu về Bưu Điện tỉnh Bạc Liêu
Chương III: Phân tích tình hình tài chính Bưu Điện Bạc Liêu.
Chương IV: Nhận xét đáng giá chung và đề xuất ý kiến.
94 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính bưu điện tỉnh Bạc Liêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Cảm Ơn !
( (
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông, Các Thầy Cô Khoa Quản Trị Kinh Doanh đã tận tâm truyền dạy những kiến thức quý báu cho em trong suốt thời gian học tập tại trường, nguồn kiến thức đó sẽ là tài sản vô giá và là hành tranh vững chắc cho em trong tương lai .
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy Nguyễn Hoàng Thanh đã cho em nhiều ý kiến quý báu giúp đỡ em trong quá trình viết và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp này.
Về phía Bưu Điện, em xin chân thành gửi tới Ban Lãnh Đạo, quý cô chú anh chị ở Phòng Kế Toán và các Phòng ban khác tại Bưu Điện Tỉnh Bạc Liêu. Sự giúp đỡ tận tình của quý cô chú anh chị đã tạo cho em một môi trường thực tập thuận lợi và tiếp cận với thực tế một cách tốt nhất. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn và kính chúc Bưu Điện Tỉnh Bạc Liêu ngày một bay cao và bay xa hơn, xứng đáng là cánh chim đầu đàn trong quá trình phát triển Bạc Liêu thành một tỉnh giàu mạnh.
Một lần nữa, em xin gửi đến Quý thầy cô Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông và quý cô chú anh chị của Bưu Điện Tỉnh Bạc Liêu lòng biết ơn và kính trọng nhất.
Nguyễn Ái Vân
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
( (
Nhận xét của giáo viên phản biện
( (
LỜI MỞ ĐẦU
(((
Với vai trò là hạ tầng cơ sở cho nền kinh tế, từ khi ra đời cho đến nay Bưu chính –Viễn thông Việt Nam luôn luôn là mạch máu, là hệ thống thần kinh của Đảng, của Nhà nước, của chính quyền các cấp. Hơn thế nữa, đó chính là công cụ phục vụ cho các hoạt động kinh tế xã hội và là đời sống tinh thần vô cùng phong phú của mọi tầng lớp nhân dân. Với mục tiêu ngày càng phát triển, Bưu chính –Viễn thông Việt Nam đã và đang chuyển mình xây dựng cơ sổ vật chất hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Hiện nay, Bưu chính- Viễn thông Việt Nam đã thành công trong giai đoạn tăng tốc và chuyển sang giai đoạn cạnh tranh và hội nhập.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, để hoạt động có hiệu quả việc phân tích tài chính đóng một vai trò hết sức quan trọng vì nó là cơ sở ø giúp các nhà quản lý ra những quyết định tài chính đúng đắn. Việc thu thập, phân tích, xử lý, đánh giá những thông tin bổ ích về hoạt động tài chính chứa đựng trong các báo cáo quyết toán có ý nghĩa sống còn đối với bất kỳ tổ chức kinh tế nào.
Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích to lớn của việc phân tích tài chính, em đã chon đề tài “Phân tích tình hình tài chính Bưu Điện tỉnh Bạc Liêu” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn được chia làm 4 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung
Chương II: Giới thiệu về Bưu Điện tỉnh Bạc Liêu
Chương III: Phân tích tình hình tài chính Bưu Điện Bạc Liêu.
Chương IV: Nhận xét đáng giá chung và đề xuất ý kiến.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng phần trình bày cũng không thể đi sâu nghiên cứu một cách chi tiết, tòan diện về tình hình tài chính của đơn vị được. Ở nay, em chỉ xin trình bày những phần chủ yếu dựa trên những cơ sở lý luận cơ bản học ở trường và các báo cáo tài chính của Bưu điện Bạc Liêu trong năm 2001, 2002. Tuy nhiên không vì thế mà làm mất đi tính chính xác của các kết luận.
Do kiến thức về phần phân tích tài chính còn hạn chế và thời gian thực tập tương đối ngắn nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo, quý cô chú, anh chị tại Bưu điện tỉnh Bạc Liêu. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
Cơ Sở Lý Luận Chung Về Hoạt Động Tài Chính Doanh Nghiệp
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
(((
1.1 . KHÁI NIỆM VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
- Bản chất tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thức giá trị (quan hệ tiền tệ) phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất trong mỗi doanh nghiệp và góp phần tích luỹ vốn cho nhà nước.
Nội dung những quan hệ kinh tế thuộc phạm vi tài chính doanh nghiệp bao gồm:
Thứ nhất: những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước (nộp thuế cho ngân sách nhà nước), ngân sách nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước và có thể góp vốn với công ty liên doanh và cổ phần (mua cổ phiếu) hoặc cho vay (mua trái phiếu) tuỳ theo yêu cầu quản lý đối với ngành kinh tế mà yêu cầu góp vốn hoặc cho vay nhiều hay ít.
Thứ hai: những mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường.Từ sự đa dạng hoá hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra các yếu tố khác của thị trường đầy đủ như thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường vốn).
Các mối quan hệ kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong thị trường này gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác; giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư, cho vay, với bạn hàng và khách hàng thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp bao gồm các quan hệ thanh toán tiền mua bán vật tư hàng hoá, phí bảo hiểm, chi trả tiền công, cổ tức, tiền lãi trái phiếu; giữa doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng phát sinh trong quá trình các doanh nghiệp vay và hoàn trả vốn, trả lãi cho các ngân hàng, các tổ chức tín dụng .
Thứ ba: những quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp
Gồm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng và tổ đội sản xuất trong việc nhận tạm ứng và thanh toán tài sản vốn liếng,…
Gồm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và CBCNV trong quá trình phân phối thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền phạt, lãi cổ phần.
Những quan hệ kinh tế trên được biểu hiện trong sự vận động của tiền tệ trong việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, vì vậy thường được xem là quan hệ tiền tệ. Những quan hệ này một mặt phản ánh doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, chiếm địa vị chủ thể trong quan hệ kinh tế đồng thời phản ánh rõ nét liên hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các khâu khác trong hệ thống tài chính nước ta.
1.1.2-Chức năng tài chính doanh nghiệp
a. Tạo vốn đảm bảo thõa mãn nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh:
Để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải tính toán nhu cầu vốn, lựa chọn nguồn vốn, tổ chức huy động và sử dụng vốn đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Về phía Nhà nước phải hỗ trợ doanh nghiệp là tạo môi trường hoạt động đa dạng, phong phú để tạo vốn và phát triển các loại hình tín dụng, thu hút, tối đa hoá các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư, tạo nguồn cho vay dồi dào đối với mọi loại hình doanh nghiệp.
b. Phân phối thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp:
Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp được tài chính doanh nghiệp phân phối. Thu nhập bằng tiền mà doanh nghiệp đạt được do thực hiện thu nhập bán hàng trước tiên phải bù đắp các chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất như: bù đắp hao mòn máy móc thiết bị, trả lương cho người lao động và để mua sắm nguyên, nhiên vật liệu để tiếp tục chu kỳ sản xuất mới, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Phần còn lại doanh nghiệp hình thành các quỹ của doanh nghiệp, thực hiện bảo toàn vốn hoặc trả lợi tức cổ phần.
Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp là quá trình phân phối thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp và quá trình phân phối đó luôn gắn liền với đặc điểm vốn có của hoạt động sản xuất kinh doanh và hình thức sở hữu doanh nghiệp.
c. Chức năng giám đốc hoặc kiểm tra bằng đồng tiền đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp căn cứ vào tình hình thu chi tiền tệ và các chỉ tiêu phản ảnh bằng tiền để kiểm soát tình hình bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh, tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh cụ thể qua tỷ trọng, cơ cấu nguồn huy động, việc sử dụng nguồn vốn huy động, việc tính toán các chi phí vào giá thành và phí lưu thông, việc thanh toán các khoản công nợ với ngân sách, với người bán, với tín dụng, với công nhân viên và kiểm tra việc chấp hành kỷ luật tài chính, kỷ luật thanh toán, kỷ luật tín dụng của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó giúp nhà quản lý phát hiện những khâu mất cân đối, những sơ hở trong công tác điều hành, quản lý kinh doanh để có quyết định ngăn chặn kịp thời các khả năng tổn thất có thể xảy ra nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc điểm chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp là toàn diện và thường xuyên suốt quá trình quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Vì vậy chức năng này trong phạm vi doanh nghiệp nơi mà hàng ngày, hàng giờ thực hiện tiêu dùng sản xuất vật tư và lao động thì nó có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba chức năng trên có mối liên hệ mật thiết hữu cơ với nhau. Chức năng tạo vốn và phân phối được tiến hành đồng thời với chức năng giám đốc (hoặc kiểm tra). Chức năng giám đốc (hoặc kiểm tra) tiến hành tốt là cơ sở quan trọng cho những định hướng phân phối tài chính đúng đắn, đảm bảo các tỷ lệ phù hợp với quy mô sản xuất, phương hướng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất được tiến hành liên tục. Việc tạo vốn và phân phối tốt sẽ khai thông các luồng tài chính, thu hút mọi nguồn vốn khác nhau để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và sử dụng hiệu quả nguồn vốn tạo ra nguồn tài chính dồi dào là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng giám đốc (kiểm tra) tài chính của doanh nghiệp.
1.1.3-Ý nghĩa của phân tích tài chính
Phân tích tài chính có thể được hiểu là quá trình kiểm tra, xem xét các số liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, dự tính các rủi ro, tiềm năng trong tương lai phục vụ cho các quyết định tài chính và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác.
Có nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng kết quả phân tích tài chính của doanh nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm đến những khía cạnh khác nhau về tài chính của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích của mình.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: phân tích tài chính cung cấp thông tin về toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp mình từ đó làm cơ sở cho các dự báo tài chính, các quyết định đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận.
Đối với các nhà đầu tư: các nhà đầu tư quan tâm đến hai mặt: lợi tức cổ phần họ nhận được hàng năm và giá trị thị trường của cổ phiếu (hay giá trị của doanh nghiệp). Qua phân tích tài chính họ biết được khả năng sinh lợi cũng như tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.
Đối với các nhà cho vay như tài chính, ngân hàng, các trái chủ: mối quan tâm của các nhà cho vay là doanh nghiệp có khả năng trả nợ vay hay không.Vì vậy họ quan tâm đến khả năng thanh toán và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp.
Đối với các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp có nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp khi các khoản nợ đến hạn trả.
Đối với các khoản vay dài hạn ngoài khả năng thanh toán họ còn quan tâm đến khả năng sinh lời vì việc hoàn vốn và lãi hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Đối với với các cơ quan nhà nước như cơ quan thuế, tài chính, chủ quản: qua phân tích tài chính cho thấy thực trạng về tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế sẽ tính toán chính xác mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp; các cơ quan chủ quản, tài chính sẽ có biện pháp quản lý hiệu quả hơn.
1.1.4- Mục tiêu phân tích tài chính
Cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ khác để họ có thể ra quyết định đầu tư, tín dụng. Các thông tin phải dễ hiểu đối với những người có một trình độ tương đối về sản xuất kinh doanh và các hoạt động kinh tế mà muốn nghiên cứu các thông tin này.
Cung cấp thông tin để giúp các nhà đầu tư các chủ nợ, những người sử dụng khác đánh giá số lượng thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền.
Cung cấp thông tin về các nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ kinh tế, những sự kiện và những tình huống làm thay đổi các nguồn lực cũng như nghĩa vụ đối với các nguồn lực đó.
1.2- TÀI LIỆU PHÂN TÍCH
1.2.1- Bảng cân đối kế toán:
a. Khái niệm:
Bảng cân đối kế toán là một bảng báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản đó. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
b. Nội dung và kết cấu bảng cân đối kế toán
b.1) Phần TÀI SẢN: các chỉ tiêu ở phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị hiện có của tài sản doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về mặt kinh tế cho phép đánh giá năng lực và trình độ sử dụng tài sản.
Về mặt pháp lý, tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.
Tài sản bao gồm hai phần:
+) Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
+) Tài sản cố định và đầu tư dài hạn.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển và thu hồi vốn trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình thức tiền tệ, hiện vật (vật tư, hàng hoá) dưới dạng đầu tư ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm:
Vốn bằng tiền là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Bao gồm đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đầu tư liên doanh và các khoản đầu tư khác có thời gian thu hồi trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Các khoản phải thu là các khoản khách hàng còn nợ doanh nghiệp và các khoản phải thu khác. Đây là những khoản mà doanh nghiệp thực sự có khả năng thu được và được tính bằng cách lấy tổng số các khoản phải thu trừ đi dự phòng phải thu khó đòi.
Hàng tồn kho: Phản ánh giá vốn, giá thành của các loại vật tư hàng hoá mà doanh nghiệp đang nắm giữ để bán ra hoặc phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh giá trị thực có thể thực hiện được của hàng tồn kho và được tính bằng tổng cộng các khoản: hàng mua đi đường, nguyên liệu vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí sản xuất dở dang, thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi đi bán, dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Các tài sản lưu động khác: Phản ánh tài sản lưu động khác ngoài các khoản kể trên.
Chi sự nghiệp: Phản ánh các chỉ tiêu thuộc kinh phí sự nghiệp chưa được duyệt bao gồm cả chi năm trước và chi năm nay.
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển thu hồi vốn trên một năm. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn của doanh nghiệp bao gồm:
Tài sản cố định: Phản ánh tổng giá trị còn lại của toàn bộ TSCĐ hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính. Trong từng loại tài sản cố định được phản ánh theo cả nguyên giá và giá trị hao mòn luỹ kế tài sản.
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn: Bao gồm các khoản đầu tư cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, đầu tư liên doanh, cho thuê TSCĐ dài hạn… có thời hạn thu hồi trên một năm.
Chi phí xây dựng cơ bản dở dang: Chỉ tiêu này phản ánh bộ phận giá trị TSCĐ đang mua sắm, xây dựng dở dang chưa hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng chưa bàn giao đưa vào sử dụng.
Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn: Là giá trị tài sản của doanh nghiệp phải đem ký quỹ, ký cược dài hạn theo yêu cầu của bên đối tác nhằm bảo đảm cho việc thực hiện các hợp đồng dài hạn.
b.2. Phần NGUỒN VỐN: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp.
Nguồn vốn bao gồm: Nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu.
Nợ phải trả: Phản ánh các khoản trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chủ nợ gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và các khoản nợ khác.
Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh.
Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời gian thanh toán trên một năm hay một chu kỳ kinh doanh.
Nợ khác gồm chi phí phải trả, tài sản thừa chờ xử lý, nhận ký quỹ, ký cược dài hạn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: Phản ánh toàn bộ nguồn thuộc quyền quản lý và sử dụng của đơn vị, các quỹ và phần kinh phí sự nghiệp được ngân sách nhà nước cấp, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc nộp lên. Bao gồm: vốn-quỹ, nguồn kinh phí.
Vốn - quỹ bao gồm các loại vốn chủ sở hưũ đầu tư ban đầu và bổ sung thêm hay được hình thành từ lợi nhuận hàng năm để lại.
Nguồn kinh phí gồm quỹ quản lý của cấp trên, kinh phí sự nghiệp.
1.2.2- Bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
a. Khái niệm:
Bảng kết quả sản xuất kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và hoạt động khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác; tình hình thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
Mục đích, ý nghĩa của báo cáo kết quả kinh doanh là cung cấp những thông tin tổng hợp cho việc đánh giá kết quả từng hoạt động trong kỳ, tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và tình hình thuế GTGT được nhà nước khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm. Thông tin của báo cáo kết qủa kinh doanh là căn cứ quan trọng cho việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư, các chủ nợ, các khách hàng.
b.Kết cấu, nội dung bảng kết quả hoạt động kinh doanh:
Phần 1: LÃI – LỖ
Phần này phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động khác. Trong phần 1 này phản ánh các chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu: Phản ánh tổng doanh thu bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Các khoản giảm trừ: Phản ánh các khoản làm giảm doanh thu như chiết khấu, giảm giá, giá trị hàng hoá bị trả lại, các khoản thuế tính trừ vào doanh thu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu).
Doanh thu thuần: Phản ánh doanh thu bán hàng đã trừ các khoản giảm trừ.
Giá vốn hàng bán: Phản ánh tổng trị giá mua của hàng hoá, giá thành sản xuất của thành phẩm, chi phí trực tiếp của các dịch vụ đã bán trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuận gộp: Phản ánh chênh lệch giữa doanh thu thuần và giá vốn hàng bán trong kỳ báo cáo.
Chi phí bán hàng: Phản ánh tổng chi phí bán hàng phân bổ cho số hàng hoá, thành phẩm trong kỳ báo cáo.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: phản ánh tổng chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng hoá, thành phẩm trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh: chỉ tiêu này phản ánh kết quả tài chính trước thuế thu nhập của hoạt động kinh doanh chính trong kỳ báo cáo, được tính trên cơ sở lợi nhuận gộp trừ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng hoá, thành phẩm đã bán trong kỳ báo cáo.
Thu nhập hoạt động tài chính phản ánh các khoản thu từ hoạt động tài chính.
Chi phí hoạt động tài chính phản ánh chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận hoạt động tài chính phản ánh số chêch lệch giữa thu nhập và chi phí hoạt động tài chính trong kỳ báo cáo.
Các khoản thu nhập bất thường: phản ánh các khoản thu nhập bất thường, ngoài hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ báo cáo.
Chi phí bất thường: Phản ánh các khoản chi phí bất thường, ngoài hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ báo cáo.
Lợi nhuận bất thường: Phản ánh số ch