Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà 
nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng 
đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với 
sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh 
suốt của Đảng, của Nhà nước ta.
Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu 
cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải 
phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào -các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao?
Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hiểu rõ về nó, ta 
có thể nắm bắt được kiên thức cơ bản nhất về nền kinh tế thị trường ở nước ta. 
Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ 
thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó.
Vì thế đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển 
nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó 
cọng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài 
này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8226 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm 
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát 
triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 
Lời nói đầu 
Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà 
nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng 
đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với 
sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh 
suốt của Đảng, của Nhà nước ta. 
Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu 
cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. 
Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải 
phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào - 
các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao? 
Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hiểu rõ về nó, ta 
có thể nắm bắt được kiên thức cơ bản nhất về nền kinh tế thị trường ở nước ta. 
Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ 
thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó. 
Vì thế đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển 
nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó 
cọng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài 
này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình. 
Nội dung 
I: Tại sao nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền 
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ 
nghĩa. 
1. Sự trì trệ, lạc hậu kém phát triển của kinh tế kế hoạch hoá tập trung 
a.Ưu điểm: 
 Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các 
nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch 
hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức 
rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta , có 
thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá 
tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp 
lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một 
lực lượng vật chất quan trọng về đất đai,tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về 
kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về 
kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền 
kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh 
tế thời chiến lúc đó. 
b.Nhược điểm: 
Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. 
Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, 
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. 
Đó là thực tế khách quan ,tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục 
chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm 
vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản 
lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do 
chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế 
mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât 
nước,trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn 
tài nguyên đó . Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm , sản 
xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra 
nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn , 
sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh 
tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu 
dựa vào vay ,viện trợ của nước ngoài. Đến cuối nhưng năm 80, giá cả leo thang, 
khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao,làm cho đời sống nhân dân bị giảm 
sút thậm chí một số đại phương nạn đói đang rình dập . Nguyên nhân sâu xa về sự 
suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa 
thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là: 
Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô 
lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ 
và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi 
dân số ngày một gia tăng. 
Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: 
Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa 
phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển. 
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, 
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của 
người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu 
người lao động. 
2. Kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm gì ? 
Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm . Nền 
KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau . 
Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt 
bậc . Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát 
triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát 
triển hơn ,con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn . Năng xuất lao 
đông được nâng cao hơn rất nhiều so với trước . Một nền kinh tế phát triển đã làm 
cho mức sống chung của các nước trên toàn thế giới được nâng cao hơn trước ... 
Trên đây là một số mặt tích cực của nền KTTT mà chúng ta cần phải phát huy để 
nền kinh tế ngày càng phát triển hơn . 
Những mặt tiêu cực của nền KTTT là : Do quá trình hoạt động sản xuất cần 
phải khai thác tài nguyên thiên nhiên , nhưng do năng xuất lao động cao cộng với 
việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên 
nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt . 
Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới 
vấn đề môi trường .các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi 
trường trầm trọng . 
Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức ,lối sống trong dân . Ngày nay 
do mức sống của con người được nâng cao , con người dễ tiếp xúc đối với những 
loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân ... 
Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp 
để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế 
được phát triển toàn diện hơn , từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn 
mà không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực. 
 3. có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không? 
Một điều cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là hoàn toàn có thể thực 
hiện được trong Chủ nghĩa xã hội, câu hỏi được trả lời bổi các lý do sau : 
a)Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. 
 Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh 
tế hàng hoá đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn 
tại của kinh tế hàng hoá, và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá : kinh tế 
hàng hoá giản đơn (kinh tế thị trường sơ khai), kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị 
trường hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất cố hữu 
của chủ nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hoá họ. Kinh tế 
hàng hoá không phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh 
do con người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Theo C. 
Mác, sản xuất và trao đổi hàng hoá là “một nét chung cho những hình thái kinh tế 
– xã hội hết sức khác nhau” tức là kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái 
kinh tế xã hội chứ không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, 
không thể cho rằng xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với phát triển chủ 
nghĩa tư bản. 
b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở 
kinh tế của một chế độ xã hội. 
Nếu quan niệm kinh tế thị trường như là cơ sở kinh tế thì tất nhiên sẽ đi đến 
kết luận: đã xây dựng kinh tế thị trường, thì chế độ tương ứng với nó phải là chế 
độ tư bản. Dĩ nhiên kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ 
với nhau. Nhưng đó không phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc 
thượng tầng. Cơ sở kinh tế cua một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất 
thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội 
là hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ 
nghĩa về tư liệu sản xuất. 
Cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương 
pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế - 
xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn một cấp so với chế độ 
kinh tế. Mọi chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhau. Do đó, dưới 
chủ nghĩa xã hội không phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch, 
mà cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường. 
c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. 
Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành mà theo một số nhà 
nghiên cứu Trung Quốc, chế dộ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, 
mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu 
nào đó, tác động giản tiếp đến thể chế kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh 
tế thị trường là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh 
doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy, 
trong điều kiện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế 
kinh tế thị trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành 
các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó 
sẽ tạo nên những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được 
kinh tế thị trường. Sự phân giải các quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thông 
qua việc phát huy tiềm năngcủa các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai 
trò chủ đạo. 
4.Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản 
xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế 
thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã 
hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự 
cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh 
tế thị trường. 
 Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là 
phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật 
của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự 
nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. 
Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên 
kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là 
giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã 
hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị 
trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không 
còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày 
nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát 
triển và lạc hậu. 
Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế 
độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công 
lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư 
liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là 
đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh 
của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng 
dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, 
không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và 
nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa 
tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát 
triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường. 
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã 
trải qua ba giai đoạn phát triển. 
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang 
kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man). 
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng 
quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, 
nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. 
Giai đoạn thứ ba,là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn 
này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước 
ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng 
các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu 
dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ... 
để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường 
trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những 
nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. 
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá 
nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của 
V.I.Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình 
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là 
một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh 
tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản 
xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ 
chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát 
triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự 
cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất-
kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao 
năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. 
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân 
công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào 
thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát 
triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. 
Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với 
nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện 
đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học ... 
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất 
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn 
chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh 
nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số.Việt Nam vẫn là một nước nghèo 
nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối 
với toàn đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn 
bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế 
thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng 
XHCN. 
Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa 
nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ 
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế 
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc 
đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra 
việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị 
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay 
đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế 
lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng 
đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế 
của thời đại. 
Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có 
đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. 
Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù 
chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của 
nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng ,tích 
luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. 
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác 
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo 
chiều rộng .Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những 
còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện 
tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. 
Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường . 
Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị 
trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát 
triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh 
đang được mở rộng với thị trường quốc tế.Nhưng thị trường ở nước ta phát triển 
chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao 
động ,thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức 
độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. 
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà 
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới ,sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư 
trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn 
với thị trường thế giới.Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng 
hoá quốc tế. 
Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một 
nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc 
gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông ,vũ khí nhiều ,quân đội mạnh 
mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được 
nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời 
sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp , tiềm lực kinh tế đã trở thành 
thước đo chủ yếu , vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo 
vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. 
Tuy vậy,nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền 
kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là 
không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình” , vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc 
phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói 
với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan 
trọng. 
Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội , nhân 
văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là b