Xu thế chung của thế giới hiện nay là chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực ngày càng
giữ vị trí trung tâm đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Con
người đang được coi là động lực đồng thời là mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát
triển của các quốc gia.
Phụ nữ là người đảm nhiệm vai trò “kép”: vừa là lực lượng lao động cơ bản của xã
hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con người. Quan tâm đến sự phát triển
của phụ nữ nói chung, khai thác và bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ nói riêng không chỉ là
vấn đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh hưởng trực
tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong chiến lược chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ những nhu cầu
khách quan và quan điểm mácxít về vai trò của phụ nữ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có
nhiều biện pháp và chính sách sử dụng nguồn nhân lực nữ và đã huy động được sức
mạnh to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hướng chiến
lược của Việt Nam hiện nay là đổi mới và phát triển. Những cơ hội và thử thách đặt ra đã
và đang đòi hỏi hơn bao giờ hết mọi tiềm năng quốc gia phải được khai thác hợp lý, trong
đó có nguồn nhân lực nữ.
So với cả nước, Hà Nội là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng cao
với mức tăng GDP bình quân trên 10%/năm. Đóng góp cho sự phát triển chung của Thủ
đô không thể không kể đến vai trò quan trọng của phụ nữ - chiếm trên 49% dân số và lực
lượng lao động toàn Thành phố. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã tạo cơ hội cho sự phát triển của phụ nữ, song, cũng đặt ra nhiều khó khăn,
thách thức cho phụ nữ trong việc tiếp cận với các cơ hội về việc làm, giáo dục - đào tạo,
trong hưởng thụ các thành quả của sự phát triển.
96 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3111 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - Xã hội ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy nguồn nhân lực nữ trong
quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở Hà Nội hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế chung của thế giới hiện nay là chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề nguồn nhân lực ngày càng
giữ vị trí trung tâm đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Con
người đang được coi là động lực đồng thời là mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát
triển của các quốc gia.
Phụ nữ là người đảm nhiệm vai trò “kép”: vừa là lực lượng lao động cơ bản của xã
hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con người. Quan tâm đến sự phát triển
của phụ nữ nói chung, khai thác và bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ nói riêng không chỉ là
vấn đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh hưởng trực
tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong chiến lược chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ những nhu cầu
khách quan và quan điểm mácxít về vai trò của phụ nữ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có
nhiều biện pháp và chính sách sử dụng nguồn nhân lực nữ và đã huy động được sức
mạnh to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hướng chiến
lược của Việt Nam hiện nay là đổi mới và phát triển. Những cơ hội và thử thách đặt ra đã
và đang đòi hỏi hơn bao giờ hết mọi tiềm năng quốc gia phải được khai thác hợp lý, trong
đó có nguồn nhân lực nữ.
So với cả nước, Hà Nội là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng cao
với mức tăng GDP bình quân trên 10%/năm. Đóng góp cho sự phát triển chung của Thủ
đô không thể không kể đến vai trò quan trọng của phụ nữ - chiếm trên 49% dân số và lực
lượng lao động toàn Thành phố. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã tạo cơ hội cho sự phát triển của phụ nữ, song, cũng đặt ra nhiều khó khăn,
thách thức cho phụ nữ trong việc tiếp cận với các cơ hội về việc làm, giáo dục - đào tạo,
trong hưởng thụ các thành quả của sự phát triển. Trong khi đó, sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay ở Thủ đô đang yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực nữ về trình độ
chuyên môn, thể lực, kỹ năng lao động...
Vấn đề đặt ra là phải biết khai thác, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng của nguồn
nhân lực nữ tạo động lực cho sự phát triển của Thủ đô. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ
thực trạng nguồn nhân lực nữ, tìm giải pháp để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực này là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế, tôi chọn vấn đề “Phát huy nguồn
nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sĩ khoa học Triết học.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa chiến lược quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nên đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
này. Tiêu biểu như:“ Con người và nguồn lực con người trong phát triển” của Viện
Thông tin Khoa học xã hội (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995) Công trình KHCN
cấp nhà nước KX - 07 “ Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội” năm 1995, “ Phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm thế giới và thực
tiễn nước ta” của PTS Trần Văn Tùng và Lê ái Lâm ( Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996),
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH - HĐH” của Phạm Minh Hạc (Nxb
Chính trị Quốc gia, 2001), “ Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi
mới” của Nolwen Henaff và Jean - Yves Martin…
Luận án tiến sĩ: “ Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo đối
với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH” của Nguyễn Thanh,
2001; Luận án phó tiến sĩ: “Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình CNH - HĐH ở nước
ta ” của Trần Kim Hải, 1999…
Nguồn nhân lực nữ là bộ phận quan trọng trong chiến lược xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực, vì thế đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ. Tiêu biểu như: GS triết học Lê Thi
với Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay, Vài suy
nghĩ về phương pháp luận tiếp cận việc nghiên cứu người phụ nữ và vai trò của giáo dục
gia đình trong sự phát triển nguồn nhân lực năm 1993, Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh và Lê
Ngọc Hùng với “Phụ nữ, giới và phát triển” năm 2000…
Trước những yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội, từ phía các cơ quan hoạch định chính sách cũng đã có
một số hội thảo tập trung bàn về vấn đề này như: “ Vai trò giới tính và nguồn nhân lực
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” do Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội
tổ chức năm 1995, hội thảo “Đưa vấn đề giới vào phát triển - Thông qua sự bình đẳng
giới về quyền hạn, nguồn lực và tiếng nói” do Ngân hàng Tái thiết và phát triển Quốc tế/
Ngân hàng Thế giới tổ chức tại Hà Nội năm 2000.
Một số công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân liên quan đến nguồn nhân lực
nữ ở Hà Nội như: “ Sự chuyển biến vai trò của phụ nữ nội thành Hà Nội dưới tác động của
công nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường” của Đặng Kim Nhung thuộc một công
trình nghiên cứu hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan năm 1996 - 1997; Khảo sát thực trạng
giới tại Hà Nội của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ Hà nội năm 2000, “Phát huy nguồn lao
động nữ ở ngoại thành Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay” của Ban nữ công Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2002; Luận văn tiến sĩ
“Tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của Trần Thị Thu năm 2002...
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí đề cập đến vấn đề
nguồn lực phụ nữ như “Quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của PGS Bùi Thị Kim Quỳ (Tạp chí Khoa học về
phụ nữ, số 2, 1996) “Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định nghề đào tạo dự phòng cho
phụ nữ “ của Tiến sĩ Nguyễn Tín Nhiệm và Tiến sĩ Phan Thị Thanh (Tạp chí Khoa học
về phụ nữ, số 4,2002), “Việc làm của phụ nữ Hà Nội” của Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh
(Tạp chí Khoa học về phụ nữ, 2/2003)…
Các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập những khía cạnh khác nhau về
nguồn nhân lực nữ. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ ở Hà
Nội còn rất phân tán, thiếu những chuyên khảo về thực trạng nguồn nhân lực nữ một cách
toàn diện, hệ thống để từ đó đề xuất các giải pháp phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội
trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm một cách công bằng giữa hai giới. Vì vậy,
tác giả mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề này trong luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy
nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay, luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay.
Để đạt mục đích đó, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực nữ, những nhân tố tác
động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ .
- Xác định tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và những yêu cầu
mới đối với nguồn nhân lực nữ trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà
Nội hiện nay.
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội
hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội từ khi Đảng ta chủ trương đổi mới đất nước, trong đó tập trung
nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực nữ và những khía cạnh chủ yếu trong việc phát
huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, nguồn lực con người, quan
điểm về vai trò của phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Phương pháp thực hiện đề tài là các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phân tích những vấn đề thực tiễn
xã hội, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp lịch sử và lôgíc, phân tích - tổng hợp, trừu
tượng - cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập xử lý
thông tin và áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu bình đẳng giới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà
Nội hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp đặc thù nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội
hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn lực phụ nữ, bổ sung
thêm những cơ sở khoa học có thể tham khảo trong hoạch định chiến lược tổng thể và
chính sách cụ thể liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội.
Dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về nguồn nhân
lực nữ trong các trường, các cơ quan chức năng ở Thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Nguồn NHân lực nữ với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở việt nam hiện nay
1.1. Nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn
nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Quan niệm mácxit về nguồn lực con người
1.1.1.1. Quan niệm mácxit về bản chất con người
Những thành tựu trong nhận thức về con người mà loài người đạt được ở thời đại
ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân loại qua hàng nghìn
năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin
có tính chất quyết định, tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân
loại.
Ngược dòng lịch sử nghiên cứu về con người có thể nhận thấy: thời cổ đại, do hạn
chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp kém, khoa học chưa
phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính chất thần
bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là nô tỳ" của thần học, các quan niệm về
con người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của
Thượng đế, không có khả năng làm chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục hưng và Khai
sáng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần dần thắng thế ở châu
Âu đã mở ra một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con
người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới giải phóng con người khỏi
thần học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên do ảnh hưởng của
chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh
hạn hẹp, thiếu tính hệ thống.
Như vậy, nghiên cứu những quan niệm về con người trước khi chủ nghĩa Mác ra
đời, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Các nhà triết học trước Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người
từ nhiều phương diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn chưa nhận
thức đúng đắn vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội, chưa đề ra được
những phương hướng, biện pháp nhằm giải phóng hoàn toàn con người.
- Phần lớn các học thuyết triết học trước Mác, khi quan niệm về con người thường
chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc bản thể vật chất
(chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa những yếu tố tự
nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con người.
- Khi xem xét con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết học trước
Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con người, coi con người như một thực thể
thụ động trước tác động của hoàn cảnh.
Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước
đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt
động thực tiễn để xem xét bản chất con người. Trong quan niệm của triết học mácxít con
người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con
người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và
phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con người
được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc: Bản chất con người không phải là
một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" 26, tr.11 . Với quan niệm đó, C. Mác
chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự
nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. ở đây, cá nhân được
hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong
phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó.
Hơn thế, mỗi cá thể là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử
của các quan hệ đó. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã
hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra
vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa
cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mácxit.
Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học phương
Đông và vốn văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con người. Theo Hồ Chí
Minh chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" 30, tr.644 . Với ý nghĩa đó, khái niệm con người
mang trong nó bản chất xã hội, là con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến
rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống. Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con
người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi
con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người
được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận
không thể tách rời. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất
giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm: sức
khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần... Người cho con người là tài
sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động
lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, là chủ
thể của lịch sử.
1.1.1.2. Quan niệm về nguồn lực con người
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức
của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá
trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản thân người
lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó
bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực.
Nguồn nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức của con người trên đầy đủ
các phương diện cho lao động sản xuất.
Nguồn lực con người" hay nguồn nhân lực" là khái niệm được hình thành trong quá
trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát
triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái niệm
nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để
phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” 4, tr.3 Việc quản lý và sử dụng nguồn
lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác bởi con người là
một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan
hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ.
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí
lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực con người được coi như
là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác như tài chính, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên...
ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà
nước mang mã số KX - 07 cho rằng nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái
độ và phong cách làm việc. GS. Phạm Minh Hạc cho rằng “Nguồn nhân lực là tổng thể các
tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn
bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó” 16,
tr.269.
TS Nguyễn Thanh xác định “nguồn nhân lực đó là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng,
những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội” 45, tr.70
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là
lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh
thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng
đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm nguồn
lực con người". Khi được sử dụng như một khái niệm công cụ để điều hành, thực thi chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động -
hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những
người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng
lao động.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác
nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản:
nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Theo chúng tôi, con người
với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ
bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển thì không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc
độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ
là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng,
sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng
con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức -
tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động
vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Khái niệm nguồn lực con người bao quát được những mặt, những khía cạnh,
phương diện cơ bản của nguồn lực con người, khắc phục được những hạn chế trong nhận
thức về mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lượng và chất lượng con người với tổng
hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và tâm lực, khẳng định nguồn lực con người vừa là
khách thể, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và quan hệ xã hội. Nói đến nguồn
nhân lực tức là nói đến con người đã, đang