Xu thế toàn cầu hoá đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch trên phạm
vi toàn cầu phát triển nhanh, đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia đồng thời cũng
góp phần làm trầm trọng hơn nạn ô nhiễm môi trường khiến các hệ sinh thái bị huỷ
hoại. Không những vậy, đôi khi du lịch còn là tác nhân gây mất ổn định về đời sống
văn hoá, xã hội. Chính vì vậy, các nhà du lịch thế giới đang tỏ ra quan tâm nhiều
đến việc nghiên cứu các tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường và đề
xuất một chiến lược phát triển mới đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trường.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, du lịch ở Việt Nam được chú ý đầu tư
phát triển, góp phần quan trọng làm tăng trưởng kinh tế - xã hội của nước nhà.
Thành phố biển Nha Trang với tiềm năng và khả năng phát triển du lịch đã nhanh
chóng trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ du khách trong nước mà cả du
khách nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển đó cũng đồng thời kéo theo nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường. Do đó, để đạt tới sự hài hoà giữa phát triển mạnh
ngành du lịch mà không làm tổn hại đến môi trường sinh thái thì chúng ta đặt ra
mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Đây là một đề tài nóng hổi trong giai đoạn
hiện nay và được nhiều người quan tâm, ủng hộ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và những bài học rút ra từ thực tiễn phát triển du
lịch bền vững trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, cũng như do tính cấp
thiết của vấn đề, chúng tôi chọn đề tài “Phát triển bền vững du lịch biển Thành
phố Nha Trang”.
143 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 5899 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển bền vững du lịch biển Thành phố Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________
Nguyễn Trịnh Ngọc Hiền
Chuyên ngành : Địa lý học
Mã số : 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐỨC TUẤN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng
Khoa học Công nghệ và Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Địa
lí và các Thầy Cô trong khoa Địa lí trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Đức
Tuấn - Thầy đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên
cứu để hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các bạn đồng nghiệp
công ty Polaris đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận
văn.
Cuối cùng, Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người
thân yêu, bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong
những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh 2009
Tác giả
Nguyễn Trịnh Ngọc Hiền
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Xu thế toàn cầu hoá đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch trên phạm
vi toàn cầu phát triển nhanh, đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia đồng thời cũng
góp phần làm trầm trọng hơn nạn ô nhiễm môi trường khiến các hệ sinh thái bị huỷ
hoại. Không những vậy, đôi khi du lịch còn là tác nhân gây mất ổn định về đời sống
văn hoá, xã hội. Chính vì vậy, các nhà du lịch thế giới đang tỏ ra quan tâm nhiều
đến việc nghiên cứu các tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường và đề
xuất một chiến lược phát triển mới đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trường.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, du lịch ở Việt Nam được chú ý đầu tư
phát triển, góp phần quan trọng làm tăng trưởng kinh tế - xã hội của nước nhà.
Thành phố biển Nha Trang với tiềm năng và khả năng phát triển du lịch đã nhanh
chóng trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ du khách trong nước mà cả du
khách nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển đó cũng đồng thời kéo theo nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường. Do đó, để đạt tới sự hài hoà giữa phát triển mạnh
ngành du lịch mà không làm tổn hại đến môi trường sinh thái thì chúng ta đặt ra
mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Đây là một đề tài nóng hổi trong giai đoạn
hiện nay và được nhiều người quan tâm, ủng hộ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và những bài học rút ra từ thực tiễn phát triển du
lịch bền vững trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, cũng như do tính cấp
thiết của vấn đề, chúng tôi chọn đề tài “Phát triển bền vững du lịch biển Thành
phố Nha Trang”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài tập trung vào việc vận dụng những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển bền vững du lịch trên thế giới và Việt Nam soi sáng cho việc đánh giá khả
năng phát triển loại hình du lịch này tại Nha Trang, góp phần phát triển du lịch tại
thành phố biển xinh đẹp này theo hướng bền vững.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Tổng quan một số vấn đề lý luận và thực tiễn vế phát triển du lịch bền vững
trên thế giới và Việt Nam, vận dụng vào thực tế phát triển du lịch biển tại
thành phố Nha Trang.
- Phân tích tiềm năng, hiện trạng phát triển du lịch biển ở Nha Trang theo
hướng bền vững
- Trên cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững, các định hướng chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, của khu vực, kiến nghị một số giải
pháp phát triển du lịch bền vững ở thành phố Nha Trang.
4. Nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc tổng quan các cơ sở lý luận cho việc phát triển bền
vững du lịch biển thành phố Nha Trang. Phân tích tiềm năng, hiện trạng và đề xuất
một số giải pháp để phát triển bền vững du lịch biển ở thành phố Nha Trang.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề du lịch biển trên địa bàn thành phố Nha
Trang từ năm 2000 đến nay trên quan điểm phát triển bền vững.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6.1. Trên thế giới
Ngay từ những năm 1980, khi các vấn đề về phát triển bền vững bắt đầu được đề
cập đã có nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm phân tích những ảnh
hưởng của du lịch đến sự phát triển bền vững. trọng tâm của các nghiên cứu này
nhằm giải thích cho sự cần thiết phải đảm bảo tính vẹn toàn của môi trường sinh
thái trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là
những nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt
động du lịch gây ra và đưa ra khái niệm “du lịch rắn” (hard tourism) để chỉ kiểu du
lịch ồ ạt và “du lịch mềm” (soft tourism) để chỉ một chiến lược du lịch mới tôn
trọng môi trường.
Ngày 14/6/1992, tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển
(UNCED) đã diễn ra hội nghị thượng định về Trái đất (The Earth summit). Tại hội
nghị này 182 chính phủ đã thông qua Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21), một
chương trình hành động toàn diện nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân
loại bước vào thế kỷ XXI. Chương trình nghị sự 21 đã nêu ra các vấn để liên quan
đến môi trường và phát triển có nguy cơ gây ra những tác động nguy hại về kinh tế
và sinh thái từ đó đề ra chiến lược nhằm hướng tới các hoạt động mang tính bền
vững hơn.
Từ đầu những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững nhằm
hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo sự phát triển lâu dài.
Một số loại hình du lịch quan tâm đến môi trường đã bắt đầu xuất hiện như: du lịch
sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch khám phá, du lịch thay thế, du lịch
mạo hiểm, đã góp phần nâng cao hình ảnh về một loại hình du lịch có trách
nhiệm, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Năm 1996, hưởng ứng chương trình Nghị sự Trái đất, ngành du lịch toàn cầu đại
diện bởi ba tổ chức quốc tế gồm: Hội đồng lữ hành du lịch thế giới (WTTC), Tổ
chức du lịch thế giới (WTO) và Hội đồng Trái đất (Earth council) đã ứng dụng
những nguyên tắc của Agenda 21 vào du lịch, phối hợp xây dựng một chương trình
hành động với tên gọi “Chương trình nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới sự phát triển
về môi trường”. Chương trình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh
nghiệp du lịch, các chính phủ, các cơ quan du lịch quốc gia, các tổ chức thương mại
và người đi du lịch.
Chương trình nghị sự 21 về du lịch đã đưa ra các lĩnh vực ưu tiên hành động với
mục đích xác định và dự kiến các bước tiến hành. Chương trình này nhấn mạnh sự
cần thiết phối hợp hành động giữa các chính phủ, phân tích tầm quan trọng về chiến
lược và kinh tế của ngành du lịch, đồng thời nêu bật những lợi ích to lớn của việc
phát triển du lịch theo hướng bền vững.
6.2. Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về du lịch mới được quan tâm nhiều từ thập niên 90
của thế kỷ XX trở lại đây cùng với sự khởi sắc của du lịch nước ta. Các công trình
nổi bật như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam, Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam 1995 – 2000, Cơ sở địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Du lịch sinh thái,
và nhiều công trình khác, tập trung nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn với quy mô và
phạm vi lãnh thổ khác nhau. Trong những năm gần đây, các tác động của du lịch
đối với môi trường tự nhiên và xã hội đã ngày càng trở nên nghiêm trọng và thu hút
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Điều đó cũng cho thấy yêu cầu cấp thiết của
việc xây dựng và phát triển du lịch bền vững.
Các cuộc hội thảo như Hội thảo quốc tế về phát triển du lịch bền vững ở Việt
Nam do tổng cục Du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seidel (CHLB Đức) tổ
chức tại Huế (tháng 5/1997), Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở
Việt Nam (tại Hà Nội, tháng 4/1998), du lịch bền vững đã được nhiều nhà nghiên
cứu trong nước và quốc tế đề cập, thảo luận.
Qua sơ lược lịch sử các nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến phát triển du
lịch bền vững, chúng ta có thể khái quát thành những điểm sau:
- Trên thế giới, lĩnh vực du lịch và du lịch bền vững đã được nhiều nhà khoa
học và các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu. Các ấn phẩm về lý luận và
thực tiễn về vấn đề phát triển du lịch bền vững là những tài liệu bổ ích cho
việc nghiên cứu và vận dụng cho các quốc gia bắt đầu tham gia tìm hiểu về
loại hình du lịch này.
- Ở Việt Nam, du lịch bền vững là một lĩnh vực còn mới mẻ, các vấn đề về
lý luận của du lịch bền vững đang tiếp tục được thảo luận để đi đến thống
nhất về nhận thức và quan điểm trong các nhà nghiên cứu và điều hành du
lịch. Từ đó, tiến hành đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển Việt Nam
nói chung và thành phố Nha Trang nói riêng dựa trên quan điểm phát triển
bền vững.
Tiếp thu các nghiên cứu đi trước, tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu còn khá
mới mẻ này: Phát triển bền vững du lịch biển Nha Trang với mong muốn được
đóng góp một phần nhỏ bé của mình, cũng như hy vọng đề tài của mình thực sự có
ý nghĩa thực tiễn nhằm làm cho du lịch ở thành phố quê hương phát triển ngày một
bền vững hơn, góp phần tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước.
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống
Hệ thống lãnh thổ du lịch được cấu thành bởi nhiều phân hệ khác nhau về
bản chất nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan điểm hệ thống giúp chúng
ta nắm bắt và điều khiển được hoạt động của mỗi phân hệ nói riêng và toàn bộ hệ
thống du lịch nói chung. Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống phức tạp gồm
nhiều thành phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là một dạng đặc biệt của
địa hệ mang tính chất hỗn hợp, có đầy đủ các thành phần: tự nhiên, kinh tế, xã hội
và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản. Vì vậy, quan điểm hệ thống luôn
được quán triệt trong nghiên cứu luận văn.
Du lịch biển Nha Trang là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống lãnh thổ du
lịch Việt Nam và đồng thời cũng chính là một hệ thống lãnh thổ du lịch gồm nhiều
thành phần.
7.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Các đối tượng nghiên cứu của địa lý không thể tách rời một lãnh thổ cụ thể
với những đặc trưng riêng. Lãnh thổ du lịch được tổ chức như một hệ thống liên kết
không gian của các đối tượng du lịch và trên cơ sở các nguồn tài nguyên, các dịch
vụ cho du lịch. Quan điểm này được vận dụng vào luận văn thông qua việc phân
tích các tiềm năng và các tác động nhiều mặt đối với lãnh thổ du lịch Nha Trang,
kết hợp có quy luật trên cơ sở phân tích, tổng hợp các thành phần của hệ thống lãnh
thổ du lịch, phát hiện và xác định những điểm đặc thù của chúng.
7.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có sự vận động, biến đồi và phát triển. Nghiên
cứu quá khứ để có cơ sở cho việc đánh giá đúng hiện tại, phân tích nguồn gốc phát
sinh, phát triển tạo tiền đề cho việc dự báo tương lai, dự báo các xu hướng phát
triển. Quan điểm này được vận dụng trong quá trình phân tích các giai đoạn chủ yếu
của quá trình hình thành, phát triển hệ thống du lịch, các phân hệ cũng như xu
hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ.
7.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường là một bộ phận không thể
thiếu của chính sách sinh thái toàn vẹn. Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài
nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn và đóng góp lợi ích cho cộng đồng, đảm
bảo sự phát triển bền vững.
Với quan điểm này, tính toàn vẹn lãnh thổ của hệ sinh thái phải được coi
trọng, trong đó các tác động của du lịch đối với khả năng chịu đựng của hệ sinh thái
cần được tính đến, đảm bảo sự phát triển du lịch trên cơ sở môi trường được bảo vệ
một cách có hiệu quả và bền vững.
7.2. Cơ sở phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: tài liệu lưu
trữ quốc gia và trung ương, tài liệu của các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch và
các tài liệu có liên quan khác. Các tài liệu thống kê luôn được bổ sung, cập nhật và
được chọn lọc để thực hiện các nghiên cứu trong luận văn.
7.2.2. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương pháp đặc thù của địa lý nói chung và địa lý du lịch nói riêng.
Phương pháp này được sử dụng từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình
tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối liên hệ về thời gian, không gian, số lượng,
chất lượng của đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận văn được thể hiện
một cách rõ nét hơn thông qua ngôn ngữ phi lời của hệ thống các bản đồ, biều đồ.
7.2.3. Phương pháp khai thác thông tin địa lý (GIS)
Đây cũng là một trong những phương pháp đặc thù của địa lý. Phương pháp
này được sử dụng trong việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, quản lý dữ liệu, cập nhật,
xử lý các dữ liệu và thiết kế các bản đồ phục vụ cho nội dung đề tài nghiên cứu.
7.2.4. Phương pháp điều tra thực địa
Đây cũng là một phương pháp truyền thống và đặc trưng của địa lý. Phương
pháp này được xem là đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu khoa học nhằm tích luỹ
tư liệu thực tế về đặc điểm hình thành, phát triển của lãnh thổ du lịch. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn được chú trọng thực hiện để đạt được
tính thực tiễn về đặc trưng của lãnh thổ. Trong nghiên cứu du lịch, các thông tin thu
thập được qua điều tra thực tế giúp các nhà nghiên cứu tổng hợp được nhiều ý kiến
và quan điểm của các du khách, các nhà quản lý du lịch một cách khách quan.
7.2.5. Phương pháp đánh giá tổng hợp
Các tài liệu đã được tác giả thu thập, điều tra, thống kê sẽ được tổng hợp,
phân tích với quan điểm hệ thống để làm cơ sở nghiên cứu nội dung đề tài.
7.2.6. Phương pháp điều tra và lấy ý kiến chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu tác giả luôn tranh thủ ý kiến của giáo viên hướng
dẫn đồng thời cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia về du lịch, các nhà điều
hành du lịch ở thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà.
8. Những nội dung cơ bản của luận văn, dự kiến các chương mục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1 : Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
Chương 2 : Tiềm năng và thực trạng phát triển bền vững du lịch biển thành
phố Nha Trang
Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp phát triển bền vững du lịch
biển ở thành phố Nha Trang
Kết luận và kiến nghị
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm về du lịch bền vững
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Theo thời gian, qua từng thời đại khác nhau, có những quan niệm khác nhau
về du lịch.
Ở thời kỳ đồ đá, con người “đi” vì sự sinh tồn, vì tránh đói, tránh rét, tránh
sợ hãi.
Đến thời kỳ cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng
ngựa đã mang mục đích tiêu khiển của những tầng lớp thống trị. Sự ra đời của tàu
hỏa vào thế kỷ XIX đã tạo động lực cho giao thông phát triển, đồng thời cũng tạo
điều kiện cho du lịch phát triển hơn. Sau đó đến sự có mặt của tàu thủy, ô tô, máy
bay, làm cho du lịch ngày càng trở nên gần gũi với con người hơn.
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan,
đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu
tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc nhóm người, rời khỏi nơi
ở của mình trong khoảng thời gian ngắn, đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi,
giải trí hay chữa bệnh.
Năm 1985, I.I. Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động
của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất, tinh
thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.
Ở Việt Nam, theo luật Du lịch ban hành vào tháng 6 – 2005, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006, “du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu tham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.
WTO định nghĩa “Du lịch theo nghĩa hành động, được định nghĩa là một
hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung
quanh hoạt động này. Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một
quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích
giải trí, tiêu khiển”.
Tuy có khá nhiều các quan điểm khác nhau về du lịch nhưng vẫn chưa có sự
thống nhất chung. Do đó, tác giả mong muốn được áp dụng một quan điểm mới của
Ts. Nguyễn Đức Tuấn với nội dung khá đầy đủ về du lịch như sau: “Du lịch là sự
ra đi của các cư dân và tạm trú cách xa (khoảng 600m) nơi ở thường xuyên của
mình để tạo ra các mối quan hệ với nhà cung ứng dịch vụ du lịch, chính quyền
và dân địa phương nơi đến, nhằm mục đích phục vụ cho việc nghỉ ngơi, giải trí,
tham quan các danh lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đoàn tụ gia đình,
và thực hiện các hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo, thể thao có tác
dụng nâng cao chất lượng cuốc sống của con người. Ngoài ra, du khách phải
nghỉ đêm và mua các dịch vụ ở nơi đến”.
1.1.2. Quan niệm về phát triển bền vững
Từ thế kỷ XIX, qua thực tiễn quản lý rừng ở Đức, người ta đã đề cập tới sự
“phát triển bền vững”. Nhưng mãi đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khái niệm này
mới được phổ biến tương đối rộng rãi.
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải và cân nhắc đến việc
khai thác các tài nguyên có khả năng phục hồi và không phục hồi, cần xem xét các
điều kiện khó khăn cũng như thuận lợi trong việc tổ chức xen kẽ các hoạt động ngắn
hạn và dài hạn.
Đến năm 1987, Ủy ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà
Grohalem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong
bản báo cáo “Tương lai chúng ta” như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là sự
phát triển có thể đáp ứng những điều kiện hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Theo ông Jordan Ryan – đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam thì
“phát triển bền vững là một quá trình đảm bảo tăng tối đa phúc lợi của xã hội và
xóa bỏ đói nghèo thông qua việc quản lý ở mức tối ưu và có hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên”. Ông khẳng định phát triển bền vững nằm ở phần giao nhau của 3 vòng
tròn: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Cũng
theo ông, chúng ta không nên coi phát triển bền vững như một phương tiện thuận
lợi để gom tất cả các vấn đề về kinh tế, xã hội và môi trường lại với nhau, mà cần
có một quan điểm toàn diện để đảm bảo các chính sách có tác dụng hỗ trợ thay vì
mâu thuẫn nhau.
Hình 1.1. Mô hình phát triển bền vững mô phỏng theo quan điểm của Jordan Ryan
Trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tháng 6/1992 tại Rio De Janeiro,
“phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp giữa
ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.
Bà Nguyễn Ngọc Lý (Trưởng ban Phát triển bền vững – UBND thành phố
Hà Nội) cũng đồng ý với các định nghĩa về phát triển bền vững của hội nghị Rio De
Janeiro, cho rằng khái niệm về phát triển bền vững cần được vận dụng linh hoạt tùy
theo từng thời điểm lịch sử, từng nền kinh tế - xã hội khác nhau và tùy theo những
nền văn hóa khác nhau của các quốc gia.
Ngoài ra, còn có một số tác giả cho rằng: “phát triển bền vững bên cảnh yếu
tố là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, cần phải có cả sự bền vững về an
Heä kinh teá
Heä töï nhieânHeä xaõ hoäi
Phaùt trieån
beàn vöõng
ninh, chính trị và bảo đảm công bằng xã hội. Khái niệm phát triển bền vững mang
tính chất toàn cầu nên không thể hiểu phát triển bền vững chỉ trong phạm vi một
nước mà phải tính đến những yếu tố hợp tác quốc tế, yếu tố phối hợp phát triển giữa
các quốc gia, nhất là những ảnh hưởng trong lĩnh vực môi trường.
Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền v