Thế giới bước vào thế kỷ XXI đang đứng trước xu thế của thời đại: Hội nhập, hợp tác, toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực để cùng phát triển. Tri thức, tài năng và nguồn lực con người là con đường để đổi mới và phát triển. Vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới những thời cơ và thách thức lớn đối với bản lĩnh và trình độ của mỗi dân tộc. Cả thế giới đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con người.
Việt Nam đang đứng trước một xã hội tương lai: xã hội thông tin, xã hội học tập, ở đó mỗi người phải nỗ lực học tập, học tập suốt đời trong một nền giáo dục tốt nhất để có được những phẩm chất, năng lực mới xứng đáng ở vị trí trung tâm của sự phát triển.
Giáo dục và đào tạo là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra và Đại hội X kế thừa là: Để đạt được các yêu cầu về con người và nguồn nhân lực – nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước – cần phải tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X trong báo cáo chính trị đã khẳng định một lần nữa: “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao” và “Đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học”. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho sự phát triển bền vững”.
Trong Chỉ thị số 40/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
126 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5557 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông vùng ven thành phố Đà Lạt đáp ứng xây dựng trường chuẩn quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế giới bước vào thế kỷ XXI đang đứng trước xu thế của thời đại: Hội nhập, hợp tác, toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực để cùng phát triển. Tri thức, tài năng và nguồn lực con người là con đường để đổi mới và phát triển. Vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới những thời cơ và thách thức lớn đối với bản lĩnh và trình độ của mỗi dân tộc. Cả thế giới đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con người.
Việt Nam đang đứng trước một xã hội tương lai: xã hội thông tin, xã hội học tập, ở đó mỗi người phải nỗ lực học tập, học tập suốt đời trong một nền giáo dục tốt nhất để có được những phẩm chất, năng lực mới xứng đáng ở vị trí trung tâm của sự phát triển.
Giáo dục và đào tạo là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra và Đại hội X kế thừa là: Để đạt được các yêu cầu về con người và nguồn nhân lực – nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước – cần phải tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X trong báo cáo chính trị đã khẳng định một lần nữa: “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao” và “Đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học”. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho sự phát triển bền vững”.
Trong Chỉ thị số 40/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong điều 15 của Luật Giáo Dục cũng đã ghi rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. Vì vậy, xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ cấp thiết của Ngành giáo dục và tất cả các nhà trường. Giáo dục phổ thông giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng mặt bằng dân trí, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Muốn thực hiện được trọng trách của mình, người giáo viên trung học phổ thông ngoài tri thức, kỹ năng đã được đào tạo, phải luôn được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng về mặt phẩm chất đạo đức, tri thức, kỹ năng sư phạm nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, nắm bắt được phương pháp giảng dạy mới, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Trong những năm qua, công tác xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên của các cấp quản lý giáo dục đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên ở mỗi địa phương tùy thuộc vào điều kiện thực tế đã có những cách thực hiện khác nhau.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học, ban hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trở thành “thước đo” chất lượng giáo viên các trường THCS và THPT trên cả nước. Tuy nhiên để chuẩn này thực sự phát huy tác dụng, những người làm công tác quản lý nhà trường cần phải có những biện pháp phát triển đội ngũ dựa trên chuẩn, hướng tới chuẩn và đáp ứng yêu cầu đặc thù của từng địa phương.
Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng với 12 trường trung học phổ thông (THPT), có 6 trường THPT công lập, trong đó có 3 trường THPT công lập đóng trên địa bàn vùng ven của thành phố. Các trường phổ thông vùng ven có điều kiện đặc thù về địa bàn và nguồn lực. Cũng như các trường THPT trong tỉnh cũng đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục với mục tiêu xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, các trường vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, giải pháp về phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT đóng vai trò quan trọng, một nhân tố quyết định cho sự phát triển của mỗi nhà trường.
Chính vì những lý do trên, bản thân chọn đề tài nghiên cứu: “Phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông vùng ven thành phố Đà Lạt đáp ứng xây dựng trường chuẩn quốc gia”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng, đề tài nhằm đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT công lập ở địa bàn vùng ven thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu xây dựng trường chuẩn quốc gia.
3. Khánh thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác phát triển đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng trường trung học phổ thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT vùng ven thành phố Đà Lạt.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ giáo viên vùng ven thành phố Đà Lạt thuộc 3 trường THPT công lập: Trường THPT Tà Nung, THPT Xuân Trường và THPT Đống Đa.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu: Số liệu được thu thập từ năm học 2008 – 2009 đến năm học 2010 – 2011.
- Giới hạn đối tượng điều tra: 50 cán bộ quản lý (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn); 100 giáo viên và 200 học sinh.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác phát triển đội ngũ giáo viên ở 3 trường THPT công lập thuộc vùng ven thành phố Đà Lạt còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển thành trường chuẩn quốc gia. Nếu hiệu trưởng nhà trường đưa ra được những biện pháp phát triển đội ngũ, đặc biệt là công tác phát triển đội ngũ giáo viên căn cứ vào chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học và những tiêu chí của trường chuẩn quốc gia, đồng thời phù hợp với yêu cầu của địa phương thì sẽ góp phần quan trọng trong công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia ở các trường THPT vùng ven thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên bậc THPT.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên và công tác phát triển đội ngũ giáo viên của 3 trường THPT công lập thuộc vùng ven thành phố Đà Lạt: THPT Tà Nung, THPT Xuân Trường, THPT Đống Đa.
- Đề xuất một số biện pháp phù hợp và có tính khả thi nhằm phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT công lập thuộc địa bàn vùng ven thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng 3 nhóm phương pháp, đó là:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích lịch sử, nghiên cứu so sánh, phân tích logic những quan niệm, lý thuyết, khái quát hoá lý luận, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm những phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.2.1. Phương pháp điều tra
Thông qua phiếu điều tra để khảo sát Hiệu trưởng, giáo viên, học sinh các trường THPT vùng ven thành phố Đà Lạt về thực trạng chất lượng giáo viên và công tác phát triển đội ngũ giáo viên
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn Hiệu trưởng, giáo viên, học sinh 3 trường trung học phổ thông để làm rõ hơn và lý giải nguyên nhân thực trạng.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Dự giờ dạy của giáo viên và các hoạt động ngoài giờ lên lớp để đánh giá chất lượng giáo viên.
7.3. Nhóm phương pháp toán thống kê
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu của phiếu hỏi.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Trên thế giới
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục. Việc tạo mọi điều kiện để mọi người có cơ hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để kịp thời bổ sung kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội là phương châm hành động của các cấp quản lý giáo dục.
Ở Ấn độ vào năm 1988 đã quyết định thành lập hàng loạt các trung tâm học tập trong cả nước nhằm tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các trung tâm này đã mang lại hiệu quả rất thiết thực.
Hội nghị UNESCO tổ chức tại NêPan vào năm 1998 về tổ chức quản lý nhà trường đã khẳng định: “Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục”.
Đại đa số các trường sư phạm ở Úc, New Zeland, Canada … đã thành lập các cơ sở chuyên bồi dưỡng giáo viên để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tại Pakistan, nhà nước đã xây dựng chương trình bồi dưỡng về sư phạm cho đội ngũ giáo viên và quy định trong thời gian 3 tháng cần bồi dưỡng những nội dung gồm: giáo dục nghiệp vụ dạy học; Cơ sở tâm lý giáo viên; Phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét HS…đối với đội ngũ giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm.
Ở Philippin, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên không tiến hành tổ chức trong năm học mà tổ chức bồi dưỡng thành từng khóa học trong thời gian HS nghỉ hè. Hè thứ nhất bao gồm các nội dung môn học, nguyên tắc dạy học, tâm lý học và đánh giá giáo dục; Hè thứ hai gồm các môn về quan hệ con người, triết học giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục; Hè thứ ba gồm nghiên cứu giáo dục, viết tài liệu trong giáo dục và Hè thứ tư gồm kiến thức nâng cao, kỹ năng nhận xét, vấn đề lập kế hoạch giảng dạy, viết tài liệu giảng dạy, viết sách giáo khoa, viết sách tham khảo.
Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tùy theo thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo dục đề ra các phương thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi cơ sở giáo dục cử từ 3 đến 5 giáo viên được đào tạo lại một lần theo chuyên môn mới và tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp dạy học.
Tại Thái Lan, từ năm 1998 việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội.
Tại Triều Tiên một trong những nước có chính sách rất thiết thực về bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên. Tất cả giáo viên đều phải tham gia học tập đầy đủ các nội dung về chương trình về nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo quy định. Nhà nước đã đưa ra “Chương trình bồi dưỡng giáo viên mới” để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên được thực hiện trong 10 năm và “Chương trình trao đổi” để đưa giáo viên đi tập huấn ở nước ngoài.
Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục như: M.I.Kônđacốp, P.V. Khuđominxki…đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải có đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác quản lý bồi dưỡng, phát triển đội ngũ.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò của người thầy giáo như: “Không thầy đố mày làm nên”, không có thầy giáo thì sẽ không có giáo dục. Điều đó nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt và toàn diện đến giáo dục mà chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất đó chính là đội ngũ giáo viên.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô giáo, công nhân viên, HS, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16 tháng 10 năm 1968 rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành các cấp Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta những bước phát triển mới” [24], “Cán bộ và giáo dục phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm được nhiệm vụ, chớ tự túc tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại” [25, 489].
Kể từ sau cách mạng tháng Tám thành công và các cuộc cải cách giáo dục năm 1950, 1956, 1979 và trong những năm “Đổi mới” nhiều công trình nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về xây dựng và phát triển đội ngũ GV như: Nguyễn Thị Phương Hoa (2002, Con đường nâng cao chất lượng cải cách các cơ sở đào tạo giáo viên); Đinh Quang Báo (2005, Giải pháp đổi mới phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên); Đặng Quốc Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007, Cẩm nang nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ giáo viên); Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp (Đổi mới nội dung đào tạo giáo viên THCS theo chương trình cao đẳng sư phạm mới); Bùi Văn Quân, Nguyễn Ngọc Cầu (Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ giảng viên) v.v…Các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng: a) Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực; b) Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và c) Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các công trình kể trên hầu hết vẫn còn để lại khoảng trống nghiên cứu về quản lý đội ngũ giáo viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về chính sách tuyển dụng, sử dụng và về vai trò, vị trí mới của đội ngũ giáo viên trong tiến trình phát triển nhà trường Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa.
Sau hơn 25 năm đổi mới, nhiều giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi. Đặc biệt từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì một số dự án, công trình nghiên cứu khoa học lớn liên quan đến đội ngũ GV ở tất cả các cấp học, bậc học đã được thực hiện.
Đối với tỉnh Lâm Đồng trong những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, do giáo dục của Tỉnh phải đương đầu với quy mô học sinh tăng nhanh (chủ yếu do di dân, tăng dân số cơ học), dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng về nhiều mặt, trong đó có đội ngũ giáo viên. Cũng như hầu hết các địa phương trên cả nước, tỉnh Lâm Đồng phải đối phó với việc phải tăng nhanh số lượng giáo viên để đáp ứng cho sự nghiệp giáo dục của Tỉnh nhà bằng nhiều giải pháp tình thế như: Đào tạo giáo viên cấp tốc, vừa đào tạo vừa giảng dạy, tuyển dụng trái chuyên môn hoặc tuyển những người chưa qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm hoặc là cho nợ chuẩn chuyên môn…Tất cả những giải pháp tình thế trên đã làm cho chất lượng đội ngũ bị giảm sút nghiêm trọng, thậm chí có những lúc, những nơi chất lượng đội ngũ giáo viên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến cả một thế hệ HS. Nhiều loại hình đào tạo, nhiều hình thức bồi dưỡng đã được mở rộng thiếu tính quy hoạch, kế hoạch đã làm sai lệch cơ cấu đội ngũ giáo viên. Và hiện nay ảnh hưởng của những hạn chế về chất lượng đội ngũ giáo viên vẫn còn tồn tại trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng mà chưa có giải pháp nào tháo gỡ một cách triệt để.
Ở địa bàn Đà Lạt là thành phố đô thị loại I thuộc Tỉnh, tuy chất lượng đội ngũ được quan tâm đầu tư hơn các địa bàn khác trong Tỉnh và hầu hết đều đạt chuẩn về trình độ. Nhưng vẫn còn một bộ phận nhỏ đội ngũ giáo viên còn có những hạn chế, đòi hỏi phải có giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên cho đến nay còn ít những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên THPT dựa trên chuẩn giáo viên đặc biệt là những nghiên cứu về đội ngũ giáo viên THPT nhất là đội ngũ giáo viên các trường vùng ven thành phố Đà Lạt đáp ứng xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia.
1.2. Quản lí nhà trường trung học phổ thông
1.2.1. Khái niệm Quản lý
Quản lý: Trong từ điển tiếng Việt “quản lý” là tổ chức điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan [40, 1363].
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa cho đến nay, có 3 yếu tố cơ bản là: nền tảng tri thức, sức lao động và quản lý. Trong đó, quản lý là sự kết hợp giữa tri thức với sức lao động. Khái niệm quản lý đã xuất hiện từ lâu và ngày càng hoàn thiện cùng với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “quản lý”. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu.
Theo Henri Fayol (1841-1925), người Pháp, ông là người đặt nền móng cho lý luận tổ chức cổ điển cho rằng: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Đây là khái niệm mang tính khái quát về chức năng quản lý.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [30, 10].
Xét với tư cách là một hành động, theo các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [17, 12].
Rất nhiều tác giả với nhiều định nghĩa về quản lý tùy theo cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau như: góc độ tổ chức, quản lý, hành động…
Như vậy theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người, có thể hiểu quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra.
Cần phải hiểu khái niệm quản lý đầy đủ, bao hàm những khía cạnh sau:
- Đối tượng tác động của quản lý là một hệ thống hoàn chỉnh. Hệ thống đó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố, theo một quy luật nhất định; phù hợp với điều kiện khách quan.
- Quản lý bao giờ cũng là hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Hệ thống quản lý gồm có 2 phân hệ. Đó là sự liên kết giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Tuy nhiên, quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại.
- Tác động của quản lý thường mang tính chất tổng hợp, hệ thống tác động quản lý gồm nhiều giải pháp khác nhau nhằm đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu, và nếu xét về mặt công nghệ là sự vận động thông tin.
- Cơ sở của quản lý là các quy luật khách quan và điều kiện thực tiễn của môi trường.
- Mục tiêu cuối cùng của quản lý là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi ích của con người, bởi thực chất của quản lý là quản lý con người và vì lợi ích của con người.
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
Có thể khẳng định, giáo dục và quản lý giáo dục là tồn tại song hành. Nếu nói giáo dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài người thì cũng có thể nói như thế về quản lý giáo dục. Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát triển không ngừng. Để đạt được mục đích đó, quản lý được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Ở cấp vĩ mô (quản lý một nền giáo dục): “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của