Với điều kiện tự nhiên, địa hình thổ nhưỡng đa dạng từ Bắc vào Nam và với điều
kiện của các khu đồng bằng châu thổ, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển
ngành nông nghiệp một cách đa dạng. Đến thời điểm này, vẫn khoảng 80% lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trải qua một thời gian dài, ngành nông nghiệp của Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc, đóng góp không nhỏ vào thu nhập GDP, đảm bảo an ninh lương thực
không chỉ cho Việt Nam mà còn đóng vai trò quan trọng đối với thế giới.
Tuy vậy, nền kinh tế đang trong quá trình phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hướng tiến bộ, phát triển công nghiệp làm nền tảng đi đôi với phát triển
mạnh lĩnh vực thương mại và dịch vụ, trong bối cảnh đó lĩnh vực nông nghiệp chịu
những ảnh hưởng không nhỏ, biểu hiện ở việc diện tích đất canh tác bị thu hẹp, chuyển
đổi mục đích, hiệu quả sử dụng thấp.
Mặt khác, quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ cũng là một trong những tác
nhân ảnh hưởng đến lĩnh vực nông nghiệp. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ là hướng đúng đắn tuy vậy với tỉ lệ gần 70%
dân số vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp như Việt Nam hiện nay thì việc duy trì và phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững đã và đang trở thành một vấn đề
mang tính bức thiết. Theo đó, vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, xây
dựng nông thôn mới trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam đã trở thành vấn đề thời sự,
được sự quan tâm của toàn xã hội.
Để giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững, việc
gắn kết giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp với các loại hình dịch vụ thu hút lao động,
2
khai thác các giá trị về tài nguyên của địa phương, đặc biệt là khai thác các giá trị nội tại
của hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo thu nhập ngoài các sản phẩm thuần túy nông
nghiệp cho những người nông dân là vấn đề đang được xã hội quan tâm đặc biệt.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển loại hình du lịch gắn với nông thôn và sản xuất
nông nghiệp trong đó có dịch vụ du lịch được Việt Nam quan tâm.
Việc phát triển du lịch nông thôn không chỉ có ý nghĩa là phát triển một loại hình du
lịch mới, tạo ra cho du lịch Việt Nam những sản phẩm du lịch khác biệt, mà nó như một
phương pháp hiệu quả nhằm duy trì và bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hoá truyền
thống đang phải chịu áp lực của phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa đang diễn ra
phổ biến. Tuy nhiên, đây là loại hình du lịch còn mới nên chưa thực sự được quan tâm
phát triển theo những hướng đi phù hợp.
Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, có rừng núi, đồng bằng, có
vùng bán sơn địa, có biển và dải đồng bằng ven biển. Chính thế mạnh này tạo cho Ninh
Bình nguồn tài nguyên phong phú để phát triển du lịch.
Quá trình đô thị hoá tại đây diễn ra chưa mạnh mẽ, tuy đã xuất hiện các khu công
nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế địa phương, nhưng phần lớn tại các làng quê
còn giữ được nét truyền thống liên quan đến các phong tục tập quán sinh hoạt, tập quán
sản xuất độc đáo, các di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Với
những đặc điểm như vậy, việc phát triển du lịch nói chung và loại hình du lịch nông
thôn là cần thiết và là thế mạnh của Ninh Bình.
Về chủ trương, lãnh đạo của tỉnh Ninh Bình đã đưa ra được những chiến lược dài
hạn cho phát triển loại hình du lịch nông thôn, được trình bày trong một số nội dung của
nghị quyết số 15 - NQ/TU về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm
2030 của Tỉnh. Cụ thể, nghị quyết đã khẳng định: “Nghiên cứu thiết kế hệ thống nhà
mẫu theo phong cách những ngôi nhà tiêu biểu của Đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt là
những ngôi nhà đẹp điển hình của làng quê Ninh Bình, cung cấp thiết kế miễn phí,
hướng dẫn xây dựng đối với dân cư đang sinh sống trong các khu du lịch chính, như
Tràng An, Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động. và các khu tái định cư, nhằm tạo
cảnh quan cho khu du lịch, tạo tiền đề phát triển loại hình du lịch ở nhà dân, đưa loại
hình du lịch này trở thành phổ biến”. Đây là cơ sở mang tính nền tảng thể hiện rõ sự
quan tâm của lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đối với phát triển du lịch nói chung và loại hình
du lịch gắn với nông thôn nói riêng.
Tuy đã có những định hướng về việc phát triển nhưng chưa định hình được mô hình
phát triển thế nào cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là: xây dựng mô hình phát triển du lịch
nông thôn tại Ninh Bình như thế nào để khai thác, phát huy được những thế mạnh về tài
nguyên và con người của Ninh Bình là vấn đề cần được quan tâm làm rõ.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch nông thôn
tại Ninh Bình” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3328 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình
Nguyễn Thị Bích Huyền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Du lịch học
Chuyên ngành: Du lịch học
Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn: TS. Lê Anh Tuấn
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về du lịch nông thôn, đặc điểm và các tiêu chí xác
định du lịch nông thôn. Tổng kết kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn trên thế giới.
Phân tích tiềm năng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Phân tích và đánh giá
hiện trạng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình. Đề xuất các giải pháp phát triển
du lịch nông thôn tại Ninh Bình.
Keywords. Du lịch; Du lịch nông thôn; Ninh Bình
Content.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với điều kiện tự nhiên, địa hình thổ nhưỡng đa dạng từ Bắc vào Nam và với điều
kiện của các khu đồng bằng châu thổ, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển
ngành nông nghiệp một cách đa dạng. Đến thời điểm này, vẫn khoảng 80% lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trải qua một thời gian dài, ngành nông nghiệp của Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc, đóng góp không nhỏ vào thu nhập GDP, đảm bảo an ninh lương thực
không chỉ cho Việt Nam mà còn đóng vai trò quan trọng đối với thế giới.
Tuy vậy, nền kinh tế đang trong quá trình phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hướng tiến bộ, phát triển công nghiệp làm nền tảng đi đôi với phát triển
mạnh lĩnh vực thương mại và dịch vụ, trong bối cảnh đó lĩnh vực nông nghiệp chịu
những ảnh hưởng không nhỏ, biểu hiện ở việc diện tích đất canh tác bị thu hẹp, chuyển
đổi mục đích, hiệu quả sử dụng thấp.
Mặt khác, quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ cũng là một trong những tác
nhân ảnh hưởng đến lĩnh vực nông nghiệp. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ là hướng đúng đắn tuy vậy với tỉ lệ gần 70%
dân số vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp như Việt Nam hiện nay thì việc duy trì và phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững đã và đang trở thành một vấn đề
mang tính bức thiết. Theo đó, vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, xây
dựng nông thôn mới trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam đã trở thành vấn đề thời sự,
được sự quan tâm của toàn xã hội.
Để giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững, việc
gắn kết giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp với các loại hình dịch vụ thu hút lao động,
1
khai thác các giá trị về tài nguyên của địa phương, đặc biệt là khai thác các giá trị nội tại
của hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo thu nhập ngoài các sản phẩm thuần túy nông
nghiệp cho những người nông dân là vấn đề đang được xã hội quan tâm đặc biệt.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển loại hình du lịch gắn với nông thôn và sản xuất
nông nghiệp trong đó có dịch vụ du lịch được Việt Nam quan tâm.
Việc phát triển du lịch nông thôn không chỉ có ý nghĩa là phát triển một loại hình du
lịch mới, tạo ra cho du lịch Việt Nam những sản phẩm du lịch khác biệt, mà nó như một
phương pháp hiệu quả nhằm duy trì và bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hoá truyền
thống đang phải chịu áp lực của phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa đang diễn ra
phổ biến. Tuy nhiên, đây là loại hình du lịch còn mới nên chưa thực sự được quan tâm
phát triển theo những hướng đi phù hợp.
Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, có rừng núi, đồng bằng, có
vùng bán sơn địa, có biển và dải đồng bằng ven biển. Chính thế mạnh này tạo cho Ninh
Bình nguồn tài nguyên phong phú để phát triển du lịch.
Quá trình đô thị hoá tại đây diễn ra chưa mạnh mẽ, tuy đã xuất hiện các khu công
nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế địa phương, nhưng phần lớn tại các làng quê
còn giữ được nét truyền thống liên quan đến các phong tục tập quán sinh hoạt, tập quán
sản xuất độc đáo, các di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Với
những đặc điểm như vậy, việc phát triển du lịch nói chung và loại hình du lịch nông
thôn là cần thiết và là thế mạnh của Ninh Bình.
Về chủ trương, lãnh đạo của tỉnh Ninh Bình đã đưa ra được những chiến lược dài
hạn cho phát triển loại hình du lịch nông thôn, được trình bày trong một số nội dung của
nghị quyết số 15 - NQ/TU về phát triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm
2030 của Tỉnh. Cụ thể, nghị quyết đã khẳng định: “Nghiên cứu thiết kế hệ thống nhà
mẫu theo phong cách những ngôi nhà tiêu biểu của Đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt là
những ngôi nhà đẹp điển hình của làng quê Ninh Bình, cung cấp thiết kế miễn phí,
hướng dẫn xây dựng đối với dân cư đang sinh sống trong các khu du lịch chính, như
Tràng An, Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động... và các khu tái định cư, nhằm tạo
cảnh quan cho khu du lịch, tạo tiền đề phát triển loại hình du lịch ở nhà dân, đưa loại
hình du lịch này trở thành phổ biến”. Đây là cơ sở mang tính nền tảng thể hiện rõ sự
quan tâm của lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đối với phát triển du lịch nói chung và loại hình
du lịch gắn với nông thôn nói riêng.
Tuy đã có những định hướng về việc phát triển nhưng chưa định hình được mô hình
phát triển thế nào cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là: xây dựng mô hình phát triển du lịch
nông thôn tại Ninh Bình như thế nào để khai thác, phát huy được những thế mạnh về tài
nguyên và con người của Ninh Bình là vấn đề cần được quan tâm làm rõ.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch nông thôn
tại Ninh Bình” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH NÔNG THÔN
1.1. Du lịch và các loại hình du lịch
1.1.1. Du lịch
1.1.2. Xu hướng phát triển các loại hình du lịch
1.2. Du lịch nông thôn
1.2.1. Khái niệm và các loại hình của du lịch nông thôn
1.2.1.1. Khái niệm về du lịch nông thôn
Trong thực tế, qua quá trình phát triển, Du lịch nông thôn (rural tourism) có
nhiều cách gọi khác nhau, phụ thuộc vào cách hiểu và cách thức thể hiện theo nội
dung chủ yếu của hoạt động du lịch nông thôn được tổ chức, cụ thể:
- Tại các quốc gia Châu Âu: Rural tourism
- Tại Úc: Farmtourism
- Tại Đài Loan: Agro-tourism/Leisure Farm
- Tại Mỹ: Agritourism
- Tại Anh: Greentourism
Tuy cách gọi có khác nhau nhưng nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch
trong loại hình du lịch nông thôn đều hướng về những vùng đất có khí hậu trong
lành, có hoạt động sản xuất của con người nhằm mục đích trải nghiệm những giá trị
tự nhiên và văn hoá địa phương.
Trong phạm vi luận văn này, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về du lịch
nông thôn như sau: “là loại hình du lịch mang đến sự trải nghiệm cho du khách về
các phương thức sản xuất, sinh hoạt của người dân địa phương có ý nghĩa bảo tồn
các giá trị văn hoá truyền thống đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng
dân cư tại các khu vực nông thôn”.
1.2.1.2. Biểu hiện và các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn
Du lịch nông thôn được biểu hiện thông qua các hình thức sau đây.
- Hình thức thứ nhất là du lịch tự nhiên. Du khách khi tham gia vào loại
hình du lịch này là trở về những khu vực tự nhiên như những vùng quê, vùng núi,
biển... nhằm mục đích nghỉ ngơi, tái phục hồi sức lao động.
- Thứ hai là du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa
phương. Hình thức này của du lịch nông thôn là du khách tham gia vào các hoạt
động văn hoá, lễ hội, thậm chí là các hoạt động liên quan tới lịch sử hay khảo cổ
của địa phương nơi khách tới.
- Thứ ba là du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên
cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương. Hình thức này coi
trọng vấn đề bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, coi trọng những nét văn hoá của người dân
địa phương.
- Một hình thức của du lịch nông thôn nữa đó là du lịch làng xã, trong đó du
khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do
các hoạt động du lịch mang lại. Hình thức này đã đánh giá cao vai trò của người dân
bản địa cũng như lợi ích của họ khi tham gia vào loại hình du lịch nông thôn.
- Hình thức cuối của du lịch nông thôn là du lịch nông nghiệp, ngư nghiệp,
lâm nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động sản
xuất của người dân địa phương.
3
1.2.2. Đặc điểm và các tiêu chí xác định du lịch nông thôn
Đặc điểm của du lịch nông thôn có thể xác định như sau:
Chủ thể tham gia: bao gồm đối tượng trực tiếp và gián tiếp. Đối tượng trực
tiếp là khách du lịch và người dân địa phương. Đối tượng gián tiếp là các doanh
nghiệp lữ hành và các cấp quản lý.
Đối tượng gián tiếp là các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, các cấp quản lý
về du lịch ở Tỉnh/thành phố. Đây là đối tượng đưa ra chương trình du lịch nông
thôn đến với du khách, và các chính sách quản lý cũng như định hướng cho phát
triển loại hình này tại các địa phương.
Đối tượng tham quan: là cảnh quan thôn xóm, phong tục tập quán và hoạt
động canh tác sản xuất. Trong ba nhân tố này thì cả 3 đều có ý nghĩa quyết định đến
thành công chương trình du lịch nông thôn.
1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch nông thôn
1.3.1. Tài nguyên du lịch nông thôn
Hoạt động du lịch nông thôn được hình thành và phát triển gắn với các tài
nguyên, đây là điều kiện kiên quyết để tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách.
Nguồn tài nguyên này được chia thành 3 nhóm:
Cảnh quan: cảnh quan thôn xóm gắn với thiên nhiên, bao gồm các yếu tố
nhân văn như kiến trúc, kết cấu, các yếu tố đặc trưng của thôn xóm, cùng với các
yêu tố tự nhiên sẵn có, các sản phẩm nội tại của hoạt động sản xuất, canh tác của
người dân.
Phong tục tập quán: có thể gọi nhóm tài nguyên này là tài nguyên nhân văn.
Bao gồm các lễ hội, phương thức và không gian sống, đặc điểm sinh hoạt, văn hoá
ẩm thực của vùng nông thôn sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp hay lâm nghiệp….
Đối với nhóm tài nguyên này dường như được bảo tồn trong các gia đình nông dân
và có giá trị thu hút mạnh mẽ đối với khách du lịch.
Hoạt động canh tác, thu hoạch: là cách thức trồng cấy, thu hái hay cách thức
chăm sóc và chăn nuôi gia cầm, gia súc; hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy hải
sản; hoạt động tại các vùng nông thôn mà hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu. Vùng hoạt động sản xuất lâm nghiệp thì hoạt động chính ở đây là cách thức bắt
các nguồn lợi từ biển hoặc cách thức chăn nuôi thuỷ hải sản. Đối với vùng nông
thôn mà hoạt động ngư nghiệp chiếm ưu thế thì tài nguyên của hoạt động sản xuất
chính là cách thức chăm sóc và khai thác tài nguyên rừng sao cho phù hợp mà
không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên.
Các hoạt động này có giá trị cho việc tạo cho du khách có được sự trải
nghiệm, thoả mãn nhu cầu hiểu biết và tò mò của du khách trong quá trình tham gia
vào hoạt động sản xuất tại các làng quê.
1.3.2. Cộng đồng dân cư
1.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng
1.3.4. Các chủ trương, chính sách
1.4. Sự phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới và Việt Nam
1.4.1. Trên thế giới
Du lịch nông thôn đã được quan tâm và phát triển mạnh ở nhiều nước Châu
Âu từ những năm 30 của thế kỷ trước. Một số quốc gia ở Châu Âu như Anh, Đức,
Pháp và Ý đã có nhiều kinh nghiệm và được coi là những nước tiên tiến trong việc
phát triển loại hình du lịch này.
Hãy xem xét loại hình du lịch nông thôn tại các quốc gia trên thế giới để tổng
kết quá trình phát triển loại hình du lịch này trên thế giới.
4
Du lịch nông thôn tại Pháp
Du lịch nông thôn tại Đài Loan
1.4.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam cho đến nay, khái niệm du lịch nông thôn vẫn chưa được nhắc
tới trong các văn bản pháp lý, mặc dù nước ta có tiềm năng lớn để phát triển du lịch
nông thôn.
Với phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm núi đồi, sông suối,
biển đảo, hang động, hệ động, thực vật phong phú, vùng nông thôn với những làng
quê cổ kính vùng Bắc Bộ, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, những vùng đất
có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn
hóa tập tục của người xưa, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu ở Nam Bộ... là
những điều kiện cần và đủ để nước ta phát triển du lịch nông thôn. Hơn thế nữa,
người Việt Nam nhân hậu, thủy chung, yêu chuộng hòa bình và giàu lòng mến
khách cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh, nhạy bén và giàu lòng quả cảm,
đã làm nên những nét văn hóa truyền thống đặc sắc Việt Nam từ chính tâm hồn mộc
mạc ấy của mình. Làng quê với những hoạt động của nghề nông, những nghề thủ
công kiếm sống hằng ngày của người dân cư ngụ, là cả một tài nguyên lớn của du
lịch nông thôn mà du khách quốc tế rất quan tâm.
1.4.3. Một số kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn cho Ninh Bình
Một là, khi phát triển loại hình du lịch nông thôn tại Ninh Bình, cần có các
nghiên cứu cơ bản về từng vùng nông thôn trong kế hoạch phát triển của tỉnh.
Hai là, xác định rõ nội dung chủ yếu để khai thác tài nguyên du lịch trên địa
bàn nông thôn là phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa với phương thức đa
dạng hóa chủ thể tham gia.
Ba là, hoàn thiện quy hoạch du lịch cho từng địa phương và tăng cường quản
lý để thực hiện các quy hoạch đã được phê chuẩn, tránh tình trạng làm cho du lịch
nông thôn kém tính bền vững.
Bốn là, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật và sản
phẩm du lịch làm cho các làng trở nên dễ tiếp xúc hơn và tạo thuận lợi trong liên kết
giữa các làng, các khu vực trong thu hút khách du lịch.
Năm là, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý dịch vụ du lịch, mở các lớp
cho cán bộ chính quyền các địa phương nâng cao nhận thức về phát triển du lịch;
xây dựng các quy ước của các làng trong khai thác du lịch.
Sáu là, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp du lịch, đưa
chương trình đào tạo phát triển du lịch nông thôn vào các cơ sở đào tạo.
Bảy là, tăng cường mở rộng thị trường và tuyên truyền quảng bá cho các
chương trình du lịch nông thôn tại Ninh Bình.
Tiểu kết
Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra “Khái niệm về du lịch, du
lịch nông thôn”, các điều kiện phát triển cũng như quá trình phát triển của du lịch
nông thôn trên thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra kinh nghiệm phát triển
du lịch nông thôn cho Ninh Bình.
Trên cơ sở lý luận đã nghiên cứu ở trên, đó sẽ là tiền đề để đưa ra được thực
trạng khai thác du lịch nông thôn tại Ninh Bình dựa trên những điều kiện phát triển
mà Ninh Bình đang có.
5
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH NÔNG THÔN TẠI NINH BÌNH
2.1. Giới thiệu về Ninh Bình
2.1.1. Tài nguyên phát triển Ninh Bình
2.1.2. Doanh thu và lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2001 -2010
Lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2001 - 2006 tăng trưởng mạnh,
được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây:
BẢNG 2.1: KẾT QUẢ KINH DOANH DU LỊCH
TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2001 -2006
Đơn vị tính: Lượt khách
Tiêu chí 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng 510.700 647.072 739.671 877.343 1.021.236 1.186.988
Khách Nội địa 350.850 392.697 520.866 589.443 691.389 811.971
Khách Quốc
159.850 254.375 218.805 287.900 329.847 375.017
tế
Doanh thu 30,56 40,41 41,61 51,00 63,18 87,997
(triệu đồng)
Nguồn: Sở VH- TT và Du lịch Ninh Bình,2006
Từ bảng thống kê có thể nhận thấy lượng khách đến Ninh Bình tăng qua các
năm cả khách nội địa và quốc tế. Năm 2001, lượng khách đạt 510.700 lượt đã tăng
gấp đôi vào năm 2006. Từ đó doanh thu cũng tăng từ hơn 30,56 triệu đồng lên tới
87,997 triệu đồng trong năm 2006.
BẢNG 2.2: KẾT QUẢ KINH DOANH DU LỊCH
TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2007 -2010
Đơn vị tính: Lượt khách
Tiêu chí 2007 2008 2009 2010
Tổng 1.518.559 1.900.888 2.390.905 3.315.261
Khách Nội địa 1.060.639 1.316.488 1.789.120 2.615.255
Khách Quốc tế 457.920 584.400 601.785 700.006
Doanh thu
109.012 162.100 250.134 549.908
(triệu đồng)
Nguồn: Sở VH- TT và Du lịch Ninh Bình,2010
Qua bảng thống kê của ngành du lịch giai đoạn 2007 - 2010 cho thấy rằng
lượng khách nội địa tăng từ 1.060.639 lượt khách năm 2007 lên 2.615.255 lượt khách
trong năm 2010, tăng 2,46 lần. Từ đó doanh thu từ 109.012 lên 549.908 triệu đồng
tăng 5,04 lần trong năm 2010.
6
Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi
thế về du lịch của Ninh Bình; hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch còn thấp, chất
lượng dịch vụ chưa cao; khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế còn rất ít; Quản lý
nhà nước về du lịch đặc biệt là trật tự, vệ sinh môi trường các khu, điểm du lịch còn
hạn chế.
2.1.3. Nguồn nhân lực du lịch Ninh Bình
Bên cạnh yếu tố tài nguyên, thì nguồn nhân lực cũng là yếu tố quan trọng để
phát triển du lịch. Theo thống kê của ngành du lịch Ninh Bình thì tính đến năm 2007,
số lao động trực tiếp trong ngành du lịch tăng 2 lần so với năm 2003. Số lượng lao
động trong ngành được đào tạo chuyên môn chiếm tỷ lệ cao.
BẢNG 2.4: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG DU LỊCH NINH BÌNH
GIAI ĐOẠN 2005 - 2009
Đơn vị: người
STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
- Trình độ đại học, cao đẳng 85 183 196 214 230
- Trình độ trung cấp, sơ cấp 478 520
190 322 410
1 nghề
- Đào tạo khác 255 220 219 278 311
- Chưa qua đào tạo 5110 4984 5190 5370 6340
Lao động gián tiếp làm du --- ---
2 5157 5900 6150
lịch
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch ( mục thống kê)
Tỷ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng về du lịch còn thấp chỉ chiếm
3,1%. Trình độ trung và sơ cấp chiếm 7%. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ
lệ cao nhất và đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với ngành du lịch của Ninh
Bình.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình
2.2.1. Thực trạng phát triển chung
2.2.1.1. Tài nguyên phát triển du lịch nông thôn
Với địa thế thuận lợi Ninh Bình có nhiều điều kiện có thể phát triển mạnh du lịch
nông thôn. Nằm ở phía Nam châu thổ sông Hồng, Ninh Bình có nhiều kiểu địa hình
khác nhau như đồng bằng, núi đá vôi và gò đồi đá phiến, được phân thành 3 vùng rõ
rệt gồm: vùng đồi núi, nửa đồi núi; vùng đồng bằng trũng; vùng đồng bằng ven biển
và biển.
Vùng đồi núi, nửa đồi núi (còn gọi là vùng "bán sơn địa") với các dãy núi đá
vôi đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp, đầm lầy, ruộng trũng ven núi, có tài
nguyên khoáng sản, đặc biệt là đá vôi. Vùng này chủ yếu nằm ở huyện Nho Quan,
phía Bắc - Đông Bắc huyện Gia Viễn và phần lớn thị xã Tam Điệp. Các vùng nửa đồi
núi tuy không lớn nhưng lại phân bố rải rác, xen kẽ chạy dài từ điểm cực Tây huyện
Gia Viễn theo hướng Đông Nam qua huyện Hoa Lư, Yên Mô xuống Kim Sơn (giáp
huyện Nga Sơn - Thanh Hoá). Do qua trình kiến tạo hơn 200 triệu năm về trước, dãy
7
núi đá vôi ở phía Tây của Ninh Bình có nhiều hang động đẹp như: Bích Động, Tam
Cốc, Địch Lộng, Xuyên Thuỷ Động, Bàn Long, Hoa Sơn… Đây là một nguồn tài
nguyên để phát triển du lịch của Ninh Bình. Với du lịch nông thôn thì địa hình này
mang đến cho du khách cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ kết hợp với cánh đồng lúa,
màu tạo cho môi trường và cảnh quan nông thôn thêm đa dạng. Các chuyến tham
quan các hang động kỳ thú kết hợp thăm quan và tham gia hoạt động sản xuất tại nhà
dân. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất gắn với nông nghiệp tại đây không phải là thế
mạnh của dạng địa hình này. Cũng dạng địa hình núi đá xen kẽ ruộng trũng, tạo nên
không gian văn hoá khác biệt, nhưng văn hoá của cư dân không đậm nét như cư dân ở
vùng đồng bằng.
Vùng đồng bằng trũng trung tâm, bao gồm phần còn lại của huyện Nho Quan,
Gia Viễn, thị xã Tam Điệp và huyện Hoa Lư, thành phố Ninh Bình, một phần huyện
Yên Mô, phía Bắc huyện Yên Khánh. Đây là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven sông
do khi biển bồi trong điều kiện kín sóng, lại bị núi đồi, bao bọc che chở, nên không đủ
phù sa bồi đắp để sót lại vùng sâu trũng ngày nay. Vì thế, vùng đất này có nhiều tiềm
năng để phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, và sản xuất hàng
hóa xuất