Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận 
những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi 
mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với 
kinh tế thị trường.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất 
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm 
ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm 
trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về 
kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư 
bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi 
nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường.
Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông 
dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát 
triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân 
ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang 
trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện 
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2802 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo 
định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để 
chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở 
nước Việt Nam hiện nay 
Lời mở đầu 
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận 
những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi 
mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với 
kinh tế thị trường. 
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất 
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm 
ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm 
trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về 
kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư 
bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi 
nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường. 
 Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông 
dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát 
triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân 
ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang 
trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện 
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo 
định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn 
ở Việt Nam hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập 
trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng 
XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của Việt 
Nam trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo 
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc 
phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây 
dựng và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay mà Đảng và nhà nước Việt 
Nam đã xác định. 
Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp 
cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay và nó sẽ 
được giải quyết ở trong tiểu luận này với những nội dung chính như sau: 
Phần I : lý luận chung gồm: 
 Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần 
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. 
 Nêu lên tính tất yếu khách quan của việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 
Phần II : Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế nhiều 
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội 
ở Việt Nam 
Phần I : Lý luận chung 
I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần 
trong thời kỳ quá độ ở việt Nam. 
Nói đến quan điểm nền kinh tế nhiều thành phần thì trước hết ta phải hiểu các thành 
phần kinh tế ? khái niệm xã hội chủ nghĩa là gì ? và tại sao phải phát triển nền kinh tế 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một định hướng khác. 
1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa 
Tại đại hội Đảng lần thứ VIII vào tháng 6 – 1996 đã xác định xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa 
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền 
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột mọi 
người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là 
xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, 
có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng 
và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ và hợp tác với nhân dân ở các nước trên thế giới. 
Theo Mác xã hội chủ nghĩa đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền 
kinh tế phát triển cao, song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và 
thực dân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc 
đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Việt Nam là nước có nền kinh tế chưa phát 
triển còn nghèo nàn lạc hậu. Do vậy Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối xây dựng 
kinh tế xã hội chủ nghĩa để Việt Nam theo kịp các nước phát triển trên thế giới. 
2. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 
 Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi 
đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, đi đến chế độ công hữu các tư liệu sản xuất 
thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Đi theo kinh tế tư bản chủ 
nghĩa là khác với cơ chế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bước rút ngắn khoảng cách 
giầu nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thể dẫn đến tiêu cực. 
“ Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn 
mối quan hệ giữa việc phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới, 
phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế, xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ 
thuật của chủ nghĩa xã hội. Phải có những cải cách mới các hình thái kinh tế xã hội thay 
thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác nhưng sự thay thế đó không diễn ra 
trong một lúc mà có tính kế thừa lịch sử trong thời kỳ quá độ, lâu dài có một chế độ sở 
hữu thuần nhất theo quy luật phủ định của phủ định. Mỗi sự vật - một hiện tượng mới ra 
đời đều kế thừa những yếu tố tích cực và từng bước thải loại những nhân tố tiêu cực của 
hình thái cái mới và cái cũ đan kết với nhau trong mỗi sự vật và tác động lẫn nhau. Quá 
trình đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc một vấn 
đề quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng Việt Nam ”. 
Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết 
bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của công dân. 
II. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ 
quá độ ở nước ta: 
1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ 
 Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu kinh tế - xã hội vừa 
bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố của 
xã hội mới ra đời, đang lớn lên từng bước, nhưng chưa giành toàn thắng. Điều đó có 
nghĩa là nó mang tính chất quá độ. V.I. Lênin viết “danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận 
dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, 
những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ 
ai cũng đều thừa nhận là có”. (V.I. Lênin : toàn tập, Nxb Tiến Bộ. 1978, t.43, tr248) 
 Lênin cũng chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có ba thành 
phần kinh tế cơ bản : kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản 
xuất hàng hoá nhỏ. 
 Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng 
định, ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: 
- kinh tế Nhà nước 
- kinh tế hợp tác 
- kinh tế tư bản Nhà nước 
- kinh tế cá thể tiểu chủ 
- kinh tế tư bản tư nhân 
 Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế nói trên ở nước ta là tất yếu. Tính tất yếu đó 
được quy định bởi các điểm sau đây: 
- Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào 
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một đòi hỏi khách quan là phải từng bước xây 
dựng cở sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu 
sản xuất, với hình thức sở hữu Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế 
Nhà nước, kinh tế hợp tác hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư 
liệu sản xuất. 
- Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và trong 
nội bộ từng vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ 
nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nước ta tất yếu còn kinh tế tư bản tư 
nhân , kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ và 
kinh tế tự nhiên. 
- Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , 
các thành phần kinh tế phải được cải tiến. Không htể “xoá bỏ” hay ‘chuyển đổi”các 
thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất, tính chất của từng ngành nghề mà từng bước hình thành quan hệ 
sản xuất mới từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Ph.Ăngghen viết : 
“bất cứ một sự cải tiến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc 
tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với quan hệ sản xuất cũ nữa. 
 Việc cải tiến các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và trình độ xã 
hội hoá sản xuất, tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và quản lý của Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa. Bởi vì khi chính quyền nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, 
thì việc xoá bỏ hình thức sở hữu này và thay thế bằng hình thức sở hữu khác không phải 
là khó, mà khó khăn phức tạp là ở chỗ, phải làm cho tư liệu sản xuất chủ yếu sau khi đã 
về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ được sử dụng tốt hơn, có hiệu quả 
hơn, làm cho quá trình sản xuất xã hội vẫn diễn ra bình thường và gắn liền với việc xây 
dựng, phát triển lực lượng sản xuất , bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển 
có hiệu quả. 
 Xuất phát từ những yêu cầu khách quan nói rên, kinh tế tư bản chủ nghĩa được cải 
biến thành bộ phận kinh tế Nhà nước ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà 
nước ; còn kinh tế của những người sản xuất hàng hoá nhỏ tiếp tục tồn tại dưới hình 
thức kinh tế cá thể hoặc chuyển thành kinh tế hợp tác. 
 Trước đây về mặt lý luận đã khẳng định rằng, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là 
tất yếu khách quan, là đặc trưng kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song trên 
thực tế, chúng ta lại chủ trương sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần bằng “làn 
sóng” quốc doanh hoá, tập thể hoá , tạo dựng nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế xã 
hội chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Điều này trái với quy luật 
khách quan, trái với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ; nó đã dẫn đến hậu quả tiêu cực 
: các tiềm năng kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất xá hội bị 
lãng phí một cách nghiêm trọng, sự phát triển kinh tế hàng hoá bị kìm hãm, do đó đời 
sống của nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn. 
 Đổi mới kinh tế không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều thành phần kinh tế, 
mà còn phải thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Tóm lại : 
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng, là đặc điểm bản chất mang tính 
quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải chỉ là 
sự thừa nhận đó mà mấu chốt là phải thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế 
trong đời sống kinh tế hiện thực, coi đó là nhiệm vụ có tính chất chiến lược lâu dài. 
2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam 
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cuộc đấu 
tranh chống xâm lược, đất nước đã thống nhất. Vào thời điểm đó nền kinh tế Việt Nam 
đã đạt được một số thành tựu nhưng hết sức nhỏ bé và còn tồn tại nhiều yếu điểm, hạn 
chế cần phải khắc phục. cụ thể : 
a. Một số thành tựu đạt được : 
Khi bước vào thời kỳ quá độ, nước ta cơ bản đã xây dựng được một nền kinh tế quốc 
doanh có năng lực đáng kể và giữ vai trò nòng cốt, chủ chốt trong nền kinh tế. Trước 
thời kỳ quá độ và cả trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ nước ta chủ trương xây 
dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nghĩa là chỉ tập chung phát triển những thành 
phần kinh tế XHCN, ra sức quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần 
kinh tế phi XHCN. Do vậy, Đảng và nhà nước tập chung phát triển kinh tế quốc doanh, 
kinh tế tập thể và đã đạt được những thành công nhất định. Đến năm 1975, nước ta có 
hệ thống nông trường quốc doanh với số lượng lớn, thu hút hàng trăm nghìn công nhân 
và hơn 3000 máy kéo. Các ngành trong kinh tế quốc doanh như công nghiệp, nông 
nghiệp, giao thông vận tải … đều được chú trọng phát triển. Nhiều nghành công nghiệp 
như công nghiệp điện đã có những đóng góp đáng kể tạo ra điện năng phục vụ cuộc 
sống và sản xuất. Nhờ đó cuộc sống của người dân từng bước được nâng cao. 
Nhờ vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế xã hội, chúng ta cũng đã xây dựng 
được một cở sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho thời kỳ sau. ở miền Bắc, đến năm 1975 
giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất đã gấp 5, 1 lần giá trị tài sản cố 
định của các nghành sản xuất vật chất năm 1960. Trong đó, công nghiệp gấp 4, 8 lần, 
xây dựng gấp 16 lần, nông lâm nghiệp gấp 7, 2 lần. Nhờ đó nền kinh tế đã có những 
bước tăng trưởng nhất định. 
Tổng sản phẩm xã hội năm 1975 gấp trên 2, 3 lần năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 
1, 9 lần, bình quân mỗi năm tăng 4, 3%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp gấp 3, 4 lần, 
bình quân mỗi năm tăng 8, 4%. Các ngành khác cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá. 
Đó là những thành tựu hết sức quan trọng đối với nước ta. Nó làm cho nhân dân ta 
thên tin tưởng vào chế độ mới. 
b. Những mặt hạn chế : 
Tuy chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng chúng ta vẫn còn gặp 
phải rất nhiều những mặt còn hạn chế, những nhược điểm trong quá trình xây dựng và 
phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ. 
Trước hết, ở nước ta trong thời kỳ quá độ nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, 
kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc, . Đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước 
thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ 
thuật còn nghèo nàn, lạc hậu là một trong những hạn chế của nước ta trong suốt thời kỳ 
này. Hầu hết các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân tính bình quân đầu người 
trong năm 1975 còn ở mức thấp, lương thực bình quân quy thóc đạt khoảng 
200kg/người. 
Cơ cấu kinh tế nước ta còn mất cân đối. Nước ta nói chung vẫn là một nước nông 
nghiệp lạc hậu với một tỷ lệ lớn lao động nằm trong nông nghiệp, nông nghiệp vẫn 
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. các ngành kinh tế vẫn tăng trưởng và 
phát triển chưa xứng với tiềm năng. sản xuất trong nước không đáp ứng được đủ nhu 
cầu tiêu dùng, thu không đủ chi. Do phần vay nợ và dựa vào viện trợ nước ngoài chiếm 
tỷ trọng ngày càng lớn. Nước ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa, năng xuất lao động 
còn thấp, lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào 
sản xuất vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Do vậy, năng suất lao động trong các 
ngành còn thấp, sản lượng sản xuất ra chưa nhiều và chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Vì thế, 
thu nhập của người lao động còn thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Ngân 
sách nhà nước không lớn do đó không đủ khả năng để đầu tư phát triên các ngành kinh 
tế đúng mức và tương xứng với tiềm năng. 
Do những thiếu sót trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập chung 
trong thời kỳ này, chúng ta mới chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập 
thể còn các thành phần kinh tế khác chưa được coi trọng vì thế kinh tế nước ta phát triển 
không cân đối. Chúng ta chưa thấy được vai trò của, vị trí và đóng góp của các thành 
phần kinh tế này là rất quan trọng trong giai đoạn đầu để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật 
cho chủ nghĩa xã hội, vì thế chúng chưa được phát triển tương xứng với vị trí và tiềm 
năng vốn có của mình. 
Thêm vào đó trình độ của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát 
triển kinh tế. Trình độ các cán bộ quản lý cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi. Nhận thức 
về nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chưa đúng đắn do vậy kinh tế thị trường chưa 
phát triển. Việc giao lưu buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước khác trong vùng chưa 
được coi trọng đúng mức và vì thế chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển 
kinh tế. 
Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy tập chung quan liêu bao cấp cũng 
đã gây tình trạng trì trệ cho nền kinh tế nước ta trong một thời gian dài trước khi bước 
vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bộ máy tổ chức hành chính của nước ta còn 
hết sức cồng kềnh, quan liêu, bao cấp, hoạt động không hiệu quả. Các cơ chế chính sách 
đã không khuyến khích được mọi người tích cực lao động 
Nhiều chính sách kinh tế đưa ra tỏ ra không hợp lý và kém hiệu quả. Chẳng hạn như 
chính sách chuyển hàng loạt HTX nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao, từ quy mô thôn lên 
quy mô xã mà chưa được chuẩn bị kỹ về mặt kỹ thuật, tư tưởng và tổ chức cán bộ, 
buông lỏng quản lý nên hoạt động kém hiệu quả. Đường lối công nghiệp hoá theo 
hướng ưu tiên phát triên công nghiệp nặng, đặt nông nghiệp và công nghiệp nhẹ xuống 
hàng thứ yếu là đường lối mang nặng tính giáo điều. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn 
lan, ham quy mô lớn, không được chuẩn bị kỹ về cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu 
ngành, về lựa chọn phương án kinh tế kỹ thuật nên sản xuất kinh doanh kém phát triển, 
kém hiệu quả. Nhìn chung, các cơ sơ kinh tế quốc doanh thời kỳ này chỉ huy động được 
50% công suất. 
Quan hệ kinh tế của đất nước ta thời kỳ này còn nhiều bất cập cần phải giải quyết 
Một sai lầm rất lớn là ta dập khuôn máy móc theo mô hình của Liên Xô mà không 
xét đến điều kiện thực tế của nước ta. 
Do những hạn chế trên mà trong thời gian dài, trong nhận thức của chúng ta thành 
phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn bị coi là phi XHCN bị ép buộc phải cải tạo vì chúng 
ta chỉ nhìn thấy mặt hạn chế của nó. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan, bất chấp 
điều kiện kỹ thuật và trình độ quản lý còn hạn chế kết quả là kinh tế ngoài quốc doanh 
bị kìm hãm còn kinh tế quốc doanh kém hiệu quả, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng nhất 
định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa trên cơ sở bao cấp, bội chi 
ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài. lực lượng sản xuất xã hội không được giải 
phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng tụt hậu. 
Do những hạn chế như trên nên ta phải tiến hành đổi mới, cụ thể là phải sử dụng các 
thành phần kinh tế 
III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: 
1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở 
nước ta: 
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong nền kinh tế mỗi nước, số lượng 
các các thành phần kinh tế và tỷ trọng mỗi thành phần kinh tế có thể khác nhau tuỳ theo 
đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước. Song, theo Lênin, phổ biến ở các nước có ba 
thành phần kinh tế : xã hội chủ nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh tế tư bản tư 
nhân. 
Trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không 
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kết cấu kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ càng phức 
tạp: nó vừa có những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa , vừa có những quan hệ xã hội chủ 
nghĩa. Đảng ta xác định nên kinh tế ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh sau đây: 
a. Kinh tế nhà nước : 
 Là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước các xí nghiệp quốc gia 
và tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển ngân sách, các 
quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước ... 
Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn doanh nghiệp nhà nước phân biệt được hai 
phạ