Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nến kinh tế tự
nhiên được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế tự cấp tự túc
đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế
nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn
đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Từ sau Đại hội VI đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT)
được 15 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều
đạt khá, năm 1990: 5,1%; 1991: 5,96%; 1998: 5,8%; 1999: 4,8%; 2000: 6,8% và có
những năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt rất cao như những năm 1994: 8,84%; 1995:
9,54%; 1996: 9,34%. Các thành tựu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện qua tốc
độ tăng trưởng kinh tế mà còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội,
Việt Nam luôn được coi là một đất nước của hòa bình và ổn định về chính trị, xã hội ,
thủ đô Hà Nội được bầu chọn là thành phố hòa bình của khu vực, nhiều hội nghị quốc
tế đã và đang được tổ chức ở Việt Nam tất cả những điều đó đã nói lên sự tin tưởng
của bạn bè thế giới đối với đất nước ta.
26 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2484 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
LờI Nói đầu
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nến kinh tế tự
nhiên được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế tự cấp tự túc
đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế
nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn
đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Từ sau Đại hội VI đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT)
được 15 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều
đạt khá, năm 1990: 5,1%; 1991: 5,96%; 1998: 5,8%; 1999: 4,8%; 2000: 6,8% và có
những năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt rất cao như những năm 1994: 8,84%; 1995:
9,54%; 1996: 9,34%. Các thành tựu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện qua tốc
độ tăng trưởng kinh tế mà còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội,
Việt Nam luôn được coi là một đất nước của hòa bình và ổn định về chính trị, xã hội ,
thủ đô Hà Nội được bầu chọn là thành phố hòa bình của khu vực, nhiều hội nghị quốc
tế đã và đang được tổ chức ở Việt Nam… tất cả những điều đó đã nói lên sự tin tưởng
của bạn bè thế giới đối với đất nước ta.
Nhưng bên cạnh sự phát triển, nền kinh tế cũng đã xuất hiện những vấn đề nóng
bỏng như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh v.v… chính là những thất
bại của KTTT mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải đối mặt. Nhưng với Việt Nam thì
việc giải quyết vấn đề này càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều so với các nước khác,
bởi, nước ta chủ trương phát triển nền KTTT nhưng là nền KTTT " định hướng
XHCN”, Nhưng, nền kinh tế của chúng ta mới là " định hướng XHCN”, có thể hiểu
như là một sự lai tạp giữa CNTB và CNXH, và đất nước ta vẫn đang trong thời kì quá
độ lên CNXH, do đó việc giải quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn. Để giải
quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược
nhưng đồng thời cũng là những vấn đề mang tính cấp thiết bức xúc trong giai đoạn
hiện nay.
PHầN I:
lý luận chung về kinh tế thị trường
I. Kinh tế thị trường.
Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải
qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác nhau về chất. Đó là: thời đại kinh
tế tự nhiên, tự cung – tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó
được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là
phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự
nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo
ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó đã tồn tại và
thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy
không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến
ngày nay. Kinh tế tự nhiên gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời từ khi chế độ
cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động
xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước
chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại.
Kinh tế hàng hoá ra đời là một sự phát triển tất yếu của nền sản xuất - xã hội.
Nó đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hoá là sản phẩm tất
yếu khách quan của một quá trình lịch sử phát triển lâu dài trên lĩnh vực tổ chức kinh
tế của xã hội loài người.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao; là sản xuất để
trao đổi gắn liền với phân công lao động xã hội mở rộng và trình độ chuyên môn hoá
phát triển gắn liền với hệ thống các loại thị trường; với hệ thống luật pháp bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển năng động và kỷ cương.
1. Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ
của nước ta
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại và phát triển kinh tế
thị trường là tất yếu và cần thiết. Bởi vì :
- Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển
cả chiều rộng lẫn cả chiều sâu. Từ đó sinh ra các mối liên hệ kinh tế, những sự hoạt
động lao động xã hội với nhau thông qua hình thức mua - bán, trao đổi hàng hoá.
- Tồn tại khách quan nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên cơ sở một số
hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất – với tư cách là những chủ thể kinh tế khác
nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên họ phải phụ thuộc lẫn nhau. Quan
hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện thông qua sự trao đổi, mua bán hàng hoá trên
thị trường.
- Kinh tế thị trường còn là sự cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế giữa
nước ta với các nước trên thế giới, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà nền kinh tế
các nước ngày càng có tính quốc tế hoá cao; các nước ưu tiên dành cho phát triển kinh
tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng
hợp của quốc gia.
2. Tác dụng của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của
thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy
luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất – kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng
tiến bộ khoa học– kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng
quy mô sản xuất- kinh doanh.
Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một
nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ – xã hội của sự phát
triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số
nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu
công bằng và văn minh.
3. Những tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
- Nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, có trình độ tay nghề và năng
lực lao động khá cao. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi và là một nguồn lực chủ yếu
có tính chất quyết định để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng hiện nay lực
lượng lao động đó chưa được sử dụng một cách đầy đủ và hợp lý.
- Cơ sở vật chất – kỹ thuật và trình độ công nghệ mặc dù chưa lớn, chưa đồng
bộ, chưa hiện đại, nhưng với những gì mà chúng ta đã có, nếu biết tổ chức quản lý và
sử dụng có hiệu quả hơn, thì chắc chắn đây là một khả năng hết sức to lớn để phát triển
kinh tế thị trường.
Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế
giới là điều kiện tốt để ta có thể tiếp thu và ứng dụng, nhanh chóng đưa nền kinh tế
nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Các tiềm năng về khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý... khá thuận lợi, dồi dào
phong phú.
- Nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư để phát triển kinh tế nói chung và phát
triển kinh tế hàng hoá nói riêng đang tăng lên với tốc độ khá nhanh và quy mô lớn.
- Thị trường trong nước giàu tiềm năng, thị trường ngoài nước ngày càng được
mở rộng cùng với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá và tự do thương mại thế giới.
Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá ở nước ta trong thời kỳ quá độ
chẳng những là một tất yếu cần thiết mà nước ta còn có đủ khả năng, điều kiện để thực
hiện. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh điều này.
II. Những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay
1. Đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
a. Phát triển nền kinh tế hàng hoá trên cơ sở của một nền kinh tế kém phát triển
- Nhìn chung, nước ta còn nghèo và kém phát triển. Nền kinh tế vẫn mang tính
chất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cấp, tự túc, kinh tế hàng hoá còn ở trình độ thấp.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế lạc hậu, thiếu đồng bộ...
- Năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế kém: khối lượng hàng hoá chưa lớn,
chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, tỷ suất hàng hoá chưa cao, xuất khẩu thô chiếm tỉ lệ
lớn. Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu từ nông nghiệp, hàng hoá công nghiệp và dịch vụ
thấp, mất cân đối cán cân xuất – nhập khẩu, chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã
chưa hấp dẫn, giá thành sản phẩm cao.
- Trình độ tổ chức và quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô bị hạn chế và non yếu trên
nhiều mặt. ..
b. Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế
Đường lối của Đảng ta đã khẳng định: “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Nền kinh tế hàng hoá có nhiều thành phần tham gia, mỗi thành phần có quyền
bình đẳng trước pháp luật. Chúng có vị trí, vai trò, bản chất khác nhau trong nền kinh
tế quá độ, nhưng chúng đều là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Từ đặc điểm này, đặt ra cho nhà nước – với tư cách là người quản lí vĩ mô - cần
tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực của các thành phần kinh
tế, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những hiện tượng tiêu cực của xã hội.
c. Nền kinh tế hàng hoá ở nước ta phát triển trong xu thế kinh tế “mở”
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đang phát triển
trong xu thế “mở”.
Với điểm xuất phát thấp như nước ta thì tranh thủ nguồn lực bên ngoài là vấn
đề quan trọng. Vì vậy, phải có chính sách rộng mở và khôn khéo, cách làm có hiệu quả
để mở rộng hợp tác với bên ngoài, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế trong nước và cũng
là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Thông qua quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta
có thể giải quyết được về nguồn vốn, về khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,
hiện đại; về thị trường tiêu thụ hàng hoá; về kinh nghiệm tổ chức quản lý. ..
1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb .Chính trị quốc gia, Hà nội,2001, tr.86)
Nhưng cũng cần thấy được tính chất hai mặt của chính sách kinh tế mở (mặt
tích cực và mặt tiêu cực). Cho nên, khi hoạch định chiến lược và chính sách phát triển
kinh tế đối ngoại, chúng ta cần quán triệt điều đó.
d. Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng vốn có của nó đã
gây ra những tác động tiêu cực và để lại những hậu quả nặng nề đối với các vấn đề
kinh tế – xã hội.
Vì vậy, chúng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế lỗi thời đó, đồng thời phải từng bước
xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hiện nay, về cơ bản cơ chế cũ
đã được xoá bỏ, nhưng chưa thật triệt để; cơ chế mới đã được hình thành và đang trở
thành cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhưng chưa thật hoàn thiện và vững chắc. Điều
đó nói lên tính chất khó khăn, phức tạp của giai đoạn quá độ từ cơ chế cũ sang cơ chế
mới.
2. Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN) có những đặc trưng sau:
- Mục đích phát triển nền KTTT định hướng XHCN là nhằm phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH nâng cao năng suất lao động xã
hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
- Nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó nhiều
thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế Tập
thể trở thành nền tảng của nền kinh tế.
- Nền KTTT định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó
phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các
nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi
- Nền KTTT định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước XHCN.
PHầN II:
thực trạng nền kinh tế thị trường ở Nước ta hiện nay.
I. Những thành tựu chủ yếu:
Tốc độ tăng của một số ngành và một số lĩnh vực kinh tế
2001-2004
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm 2004
Số báo
cáo Quốc
hội tháng
10/2004
Số
ước cuối
năm
(12/2
004)
- Tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước (GDP) (%)
6,9 7,1 7,3 7,6 7,7
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất
công nghiệp (%)
14,6 14,8 16,0 15,6 16,0
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất
nông nghiệp (%)
4,7 6,5 4,9 4,9 5,4
- Tốc độ tăng giá trị các ngành
dịch vụ (%)
6,10 6,54 7,2 8,0 8,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết quả thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2004 như sau:
(1) Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 7,7% (kế hoạch là
7,5 - 8%), trong đó khu vực nông, lâm ngư nghiệp tăng 3,3%, khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 10,2%, khu vực dịch vụ tăng 7,3%.
(2) Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,9% so với năm 2003 (kế hoạch
là 4,6%);
(3) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,6% (kế hoạch là 15%);
(4) Giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 8% (kế hoạch là 8%);
(5) Kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng gần 24% (kế hoạch là 12%);
(6) Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt 11,8% dự toán
năm, bằng 23,5% GDP1 và tăng 17,4% so với thực hiện năm 2003;
(7) Tổng chi Ngân sách nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng,
vượt
9,8% so với dự toán năm;
(8) Bội chi ngân sách nhà nước là 5% GDP, bằng dự toán đề ra; (9) Vốn đầu tư
toàn xã hội đạt 35,4% GDP (kế hoạch đề ra là 36%);
(10) Giá hàng tiêu dùng tăng 9,5% (kế hoạch đề ra là dưới 5%);
(11) Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,55 triệu người, đạt kế hoạch;
(12) Số học sinh học nghề tuyển mới tăng 7%, đạt kế hoạch;
(13) Tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,3%, so với kế hoạch là dưới 10%;
(14) Tỷ lệ sinh giảm 0,037%, (kế hoạch là 0,04%);
(15) Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 26%, đạt kế hoạch.
Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2001 - 2003 và kết quả thực
hiện kế hoạch năm 2004 như trên, có thể đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu và
nhiệm vụ 4 năm 2001 - 2004 so với kế hoạch 5 năm như sau:
1- Kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền kinh tế trong 4 năm qua duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định; nhịp
độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001 - 2004 khoảng 7,2% (năm 2001 tăng 6,9%,
năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%); tuy thấp hơn 0,3%
so với mức kế hoạch bình quân chung 5 năm 2001 - 2005; nhưng trong điều kiện khó
khăn cả ở trong và ngoài nước thì mức tăng trưởng đạt được trong 4 năm qua là một cố
gắng rất lớn; đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004)
là 5,2% (kế hoạch là 4,8%). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm (GDP nông nghiệp) dự kiến
chỉ đạt khoảng 3,4%, thấp hơn mục tiêu đề ra (mục tiêu 5 năm là 4%/năm).
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004) tăng
15,3%, (kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là 13,1%). Tuy nhiên, do chi phí sản xuất còn
cao nên giá trị tăng thêm của công nghiệp bình quân 4 năm chỉ đạt 10%, thấp hơn kế
hoạch (kế hoạch 5 năm là 10,4%).
Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 4 năm khoảng 7,2%, thấp hơn so với
mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 đề ra là 7,5%. Giá trị tăng thêm bình quân 4
năm đạt 6,6% (mục tiêu kế hoạch 5 năm là 6,8%).
Tính chung 4 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng
xuất khẩu bình quân 4 năm là khoảng 14,6% (năm 2001 tăng 4,1%, năm 2002 tăng
11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 24%) (kế hoạch 5 năm là 104 - 110 tỷ
USD, tăng 14 - 16%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên
305 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại
thương phát triển.
Trong 4 năm 2001-2004, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao
mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị
trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ
21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công
nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1% GDP so với 40% năm
2003. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có
xu hướng phục hồi, dự kiến đạt 38,5% so với 38,2% năm 2003. Trong nội bộ ngành
nông, lâm, ngư nghiệp cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng của
ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004. Trong khi
đó tỷ trọng của ngành thủy sản vẫn có xu thế tăng lên, từ 18,4% năm 2003 lên 19,5%
năm 2004.
Cơ cấu ngành công nghiệp có nhiều tiến bộ, tỷ trọng của ngành công nghiệp
chế biến, chế tác vẫn duy trì xu hướng tăng lên, giá trị tăng thêm của ngành từ 61%
năm 2003 tăng lên 61,5% vào năm 2004; trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp
khai thác giảm từ 27,7% năm 2003 xuống còn 26,5% năm 2004. Điều này chứng tỏ
ngành công nghiệp đang đi vào hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn. Cơ cấu các
ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ
có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.... Các hoạt động thương mại
diễn ra sôi động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng
của ngành thương nghiệp tăng từ 36% năm 2003 lên 36,5% năm 2004. Các sản phẩm
xuất khẩu đã qua chế biến được nâng dần qua các năm (Năm 2000, hàng qua chế biến
chiếm 44,2% tổng giá trị xuất khẩu, năm 2001: 46,7%; năm 2002: 50,4%; năm 2003:
55%; năm 2004: 57%).
2- Vốn đầu tư phát triển và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể.
Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài
sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và
mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh
tế-xã hội khác vào cuộc sống.
Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong
những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội
lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển.
Như vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001 - 2004 (tính
theo giá 2000) khoảng 731 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra.
Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của
Nhà nước chiếm 14,7%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu
tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trự