Một trong những nhân tố mang tính quyết định sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế nói chung và ngân hàng nói riêng là nhân tố con người. Trong các yếu tố vật chất cấu
thành nên hoạt động của ngân hàng như: vốn, trụ sở làm việc, trang thiết bị, nhân lực và
môi trường thì nhân lực là yếu tố quyết định nhất. Đặc biệt, trong một ngành kinh tế
phát triển nhờ qui mô và tri thức như ngân hàng thì nguồn nhân lực chất lượng cao lại
càng có vai trò quan trọng. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhân
lực của ngân hàng cần có sự thay đổi cơ bản về chất, không ngừng nâng cao năng lực, kỹ
năng tác nghiệp và nhận thức về môi trường hoạt động thì mới đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ mới. Chỉ khi có sự chuyển biến cơ bản cả về lượng và chất của đội ngũ nhân
lực thì hệ thống ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển, nhất là trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang bước vào giai đoạn quan trọng với việc thực hiện
các cam kết quốc tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
nước ta. Thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27 tháng 11 năm 2001 của Bộ Chính
trị, NHNN Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế
trong lĩnh vực ngân hàng với 7 nội dung. Một trong những nội dung quan trọng của
Chương trình là xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực trung và dài hạn cho đội
ngũ nhân lực ngành ngân hàng.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đội ngũ nhân lực của NHNN Việt
Nam đã có sự phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất
cập. Xem xét về năng lực thực thi nhiệm vụ thì chưa đáp ứng yêu cầu và sẽ gặp nhiều
khó khăn khi môi trường hoạt động của thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng có nhiều biến động trong thời gian tới. Hoạt động phát triển nguồn nhân
lực về cơ bản vẫn thực hiện theo cách thức truyền thống và mang nặng tính chất của một
cơ quan hành chính thuần túy.
116 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển nguồn nhân lực của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nhân tố mang tính quyết định sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế nói chung và ngân hàng nói riêng là nhân tố con người. Trong các yếu tố vật chất cấu
thành nên hoạt động của ngân hàng như: vốn, trụ sở làm việc, trang thiết bị, nhân lực và
môi trường… thì nhân lực là yếu tố quyết định nhất. Đặc biệt, trong một ngành kinh tế
phát triển nhờ qui mô và tri thức như ngân hàng thì nguồn nhân lực chất lượng cao lại
càng có vai trò quan trọng. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhân
lực của ngân hàng cần có sự thay đổi cơ bản về chất, không ngừng nâng cao năng lực, kỹ
năng tác nghiệp và nhận thức về môi trường hoạt động thì mới đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ mới. Chỉ khi có sự chuyển biến cơ bản cả về lượng và chất của đội ngũ nhân
lực thì hệ thống ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển, nhất là trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang bước vào giai đoạn quan trọng với việc thực hiện
các cam kết quốc tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
nước ta. Thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27 tháng 11 năm 2001 của Bộ Chính
trị, NHNN Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế
trong lĩnh vực ngân hàng với 7 nội dung. Một trong những nội dung quan trọng của
Chương trình là xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực trung và dài hạn cho đội
ngũ nhân lực ngành ngân hàng.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đội ngũ nhân lực của NHNN Việt
Nam đã có sự phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất
cập. Xem xét về năng lực thực thi nhiệm vụ thì chưa đáp ứng yêu cầu và sẽ gặp nhiều
khó khăn khi môi trường hoạt động của thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng có nhiều biến động trong thời gian tới. Hoạt động phát triển nguồn nhân
lực về cơ bản vẫn thực hiện theo cách thức truyền thống và mang nặng tính chất của một
cơ quan hành chính thuần túy. Công tác tổ chức cán bộ được thực hiện theo các qui định
hiện hành của Nhà nước về tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và đào tạo cán bộ công chức.
Theo khoa học quản lý nhân sự, phát triển nguồn nhân lực là hoạt động tiềm ẩn trong tất
cả các công đoạn của quản trị nhân lực. Trong tuyển dụng đã có khía cạnh phát triển dưới
hình thức xem xét tiềm năng của người được tuyển dụng, tuyển dụng là phát triển về mặt
lượng của nguồn nhân lực. Trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là làm tăng giá trị
của nguồn nhân lực qua việc tăng năng lực thực thi nhiệm vụ của mỗi cá nhân và của tổ
chức. Tuy nhiên những năm qua, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, hiệu quả thực
hiện các chức năng phát triển của quản lý nguồn nhân lực chưa cao, từ đó ảnh hưởng đến
chất lượng của đội ngũ nhân lực trong NHNN, không tương xứng với trọng trách của một
NHTW. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho hoạt động phát triển nguồn nhân lực của
NHNN là xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu phát triển của
hệ thống ngân hàng và của hội nhập kinh tế quốc tế
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài "Phát triển nguồn nhân lực của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua ở Việt Nam đã có nhiều người quan tâm và nghiên cứu về nguồn
nhân lực và phát triển nguồn nhân lực theo nhiều giác độ khác nhau. Trong bối cảnh nền
kinh tế đang chuyển đổi và thị trường lao động chưa hình thành rõ nét, nên đa số công
trình nghiên cứu có hướng tập trung xem xét vấn đề phát triển nguồn nhân lực tầm vĩ mô
hoặc gắn phát triển nguồn nhân lực với giải quyết công ăn việc làm, phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế. Trong đó có một số nghiên cứu tiêu biểu như chương trình khoa học
cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội"
của GS.TS Nguyễn Mạnh Đường làm chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp Nhà nước năm
2000: "Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam" của TS. Nguyễn Tuyết Mai,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của yếu tố con người trong phát triển ở ngành ngân
hàng, ngay từ đầu những năm 90 đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học bàn về vấn
đề nguồn nhân lực. Đặc biệt từ khi có Luật NHNN Việt Nam ban hành năm 1997, các đề
tài khoa học đã nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề cấp thiết của đội ngũ nhân lực ngân
hàng trong quá trình đổi mới cơ cấu và phát triển của ngành. Các công trình nghiên cứu
quan trọng, như: đề tài khoa học số 95.10.01 có tiêu đề "Nhu cầu nhân lực của ngành ngân
hàng Việt Nam thời điểm đầu thế kỷ XXI", do TS. Lê Đình Thu làm chủ nhiệm; đề tài
khoa học số 95.10.02 về "Khảo sát nhân lực ngành ngân hàng Việt Nam" và đề tài khoa
học số 95.10.03: "Giải pháp đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực Ngân hàng Việt
Nam thời điểm đầu thế kỷ XXI" do TS. Phạm Thanh Bình làm chủ nhiệm. Nội dung của
các đề tài và công trình tập trung nghiên cứu phân tích đánh giá và dự báo xu hướng sử
dụng nguồn nhân lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó chú trọng nhân lực của
khối ngân hàng thương mại, ít đề cập đến nhân lực của NHNN. Nguyên nhân do thời
gian đó những vấn đề bất cập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn được coi là xuất
phát từ lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mà chưa chú ý đến NHNN với tư cách là NHTW
của đất nước có chức năng ngân hàng của các ngân hàng, chịu trách nhiệm ổn định đồng
tiền và gián tiếp ổn định hệ thống. Những vấn đề bất cập của nguồn nhân lực NHNN đã
gợi mở cho nhiều công trình nghiên cứu sau năm 2000. Cụ thể là đề tài khoa học số 98-
05: "Những vấn đề cơ bản về đổi mới công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học
phù hợp với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường" do TS Vũ Thị Liên làm
chủ nhiệm. Luận văn thạc sĩ kinh tế "Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị nguồn nhân
lực Ngân hàng Nhà nước" của tác giả Nguyễn Chí Thành, 2002; Luận văn thạc sĩ kinh tế:
"Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực hệ thống
Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Trần Hữu Thắng, 2003. Các
công trình trên đã nghiên cứu nguồn nhân lực của NHNN trên giác độ quản trị nhân lực
và đào tạo phát triển.
Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến vấn đề phát
triển nguồn nhân lực của NHNN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu:
Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực của NHNN từ khi có Luật NHNN
Việt Nam đến nay. Qua đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực của
NHNN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển nguồn nhân lực và kinh
nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số ngân hàng trung ương.
- Phân tích thực trạng và đánh giá theo quan điểm tổng thể phát triển nguồn nhân
lực của NHNN từ khi có Luật NHNN.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực của
NHNN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực của NHNN Việt Nam.
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có nội hàm rộng, luận văn chỉ nghiên cứu phát
triển nguồn nhân lực như là mục tiêu và đối tượng của quá trình đổi mới cơ cấu và phát
triển của NHNN Việt Nam.
Những vấn đề khác có liên quan trong chừng mực nhất định, chúng tôi vẫn đề
cập nhằm làm sáng tỏ thêm cho vấn đề chính nêu trên đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp lôgíc và nghiên cứu so sánh, phương pháp tổng hợp và phân tích.
Các số liệu sử dụng trong luận văn là những số liệu của các báo cáo và đề tài
nghiên cứu đã công bố chính thức.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Đưa ra cách nhìn mới về phát triển nguồn nhân lực theo quan điểm tổng thể,
thống nhất.
- Đúc rút kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của một số ngân hàng trung
ương tiêu biểu.
- Mô tả và phân tích thực trạng của phát triển nguồn nhân lực của NHNN Việt
Nam từ 1998 đến nay.
- Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực của NHNN nhằm đáp
ứng các yêu cầu mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 mục.
Mục lục
Trang
Më ®Çu 1
Chương 1: một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn
nhân lực ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
6
1.1. Phát triển nguồn nhân lực và các nhân tố tác động đến phát triển
nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
6
1.2. Vai trò của ngân hàng, ngân hàng trung ương và yêu cầu đối với
nguồn nhân lực ngân hàng trung ương trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế
19
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số ngân hàng trung
ương
26
Chương 2: thực trạng phát triển nguồn nhân lực của ngân hàng
nhà nước việt nam từ khi có luật ngân hàng nhà
nước
38
2.1. Tổ chức, bộ máy, chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
38
2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam từ 1998 đến nay
41
2.3. Đánh giá phát triển nguồn nhân lực của ngân hàng nhà nước những
năm qua
69
Chương 3: phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực của ngân hàng nhà nước việt nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
76
3.1. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
76
3.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
97
Kết luận 107
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 109
Phô lôc 112
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển nguồn nhân lực ngân hàng
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Phát triển nguồn nhân lực và các nhân tố tác động đến phát triển nguồn
nhân lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Nội dung phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực
Về ý nghĩa sinh học, nguồn nhân lực là nguồn lực sống, là thực thể thống nhất
của cái sinh vật và cái xã hội. C. Mác đã khẳng định: "Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội". Về ý nghĩa kinh tế, nguồn nhân lực là
"tổng hợp các năng lực lao động trong mỗi con người của một quốc gia, một vùng lãnh
thổ, địa phương, đã được chuẩn bị ở mức độ nhất định và có khả năng huy động vào quá
trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoặc vùng địa phương cụ thể" [1, tr. 22].
Theo quan niệm của ILO thì lực lượng lao động là dân số trong độ tuổi lao động
thực tế có việc làm và những người thất nghiệp. Đây là khái niệm về nguồn nhân lực theo
nghĩa tương đối hẹp, coi nguồn nhân lực là nguồn lao động hoặc là toàn bộ lực lượng lao
động trong nền kinh tế quốc dân. Trong số liệu thống kê, Tổng cục Thống kê Việt Nam
qui định nguồn nhân lực xã hội là những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm
và cả những người ngoài độ tuổi lao động thực tế đang làm việc và những người thất
nghiệp.
Những quan điểm trên, dưới góc độ nào đấy thì nguồn nhân lực được hiểu là lực
lượng lao động xã hội, là những người lao động cụ thể và chỉ thuần túy về mặt số lượng
người lao động.
Theo quan điểm của kinh tế học phát triển, nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên
nhân sự của quốc gia hoặc của một tổ chức, là vốn nhân lực. ở tầm vĩ mô đó là nguồn lực
xã hội, ở tầm vi mô đó là một tập hợp của rất nhiều cá nhân, nhân cách khác nhau với
những nhu cầu và tâm lý khác nhau, là toàn bộ đội ngũ nhân viên của tổ chức, vừa có tư
cách là khách thể của hoạt động quản lý vừa là chủ thể hoạt động và là động lực của tổ
chức đó. Từ góc độ hạch toán kinh tế, coi đó là vốn lao động (human capital), với phần
đóng góp chi phí của nguồn vốn lao động trong sản phẩm sản xuất ra. Từ góc độ của kinh
tế phát triển, người lao động trong một tổ chức được coi là nguồn nhân lực với những khả
năng thay đổi về số lượng và chất lượng của đội ngũ trong quá trình phát triển của tổ
chức, hay còn gọi là "vốn nhân lực, được hiểu là tiềm năng, khả năng phát huy tiềm năng
của người lao động, là cái mang lại nhiều lợi ích hơn trong tương lai so với những lợi ích
hiện tại" [6, tr. 9].
Theo định nghĩa của UNDP: "Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức
và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc đang là tiềm năng để
phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng". Như vậy, nguồn nhân lực là tổng thể các
tiềm năng lao động con người của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất
định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; "tiềm
năng đó bao hàm tổng hòa các năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách con người của một
quốc gia, đáp ứng với một cơ cấu nhất định của lao động do nền kinh tế đòi hỏi. Thực
chất đó là tiềm năng của con người về số lượng, chất lượng và cơ cấu" [6, tr. 9]. Tiềm năng
về thể lực con người thể hiện qua tình trạng sức khỏe của cộng đồng, tỷ lệ sinh, mức độ
dinh dưỡng của xã hội. Cơ cấu dân số thể hiện qua tháp tuổi của dân số. Năng lực thế
chất của con người là nền tảng và cơ sở để các năng lực về trí tuệ và nhân cách phát triển.
Tiềm năng về trí lực là trình độ dân trí và trình độ chuyên môn kỹ thuật hiện có, cũng
như khả năng tiếp thu tri thức, khả năng phát triển tri thức của nguồn nhân lực. Năng lực
về nhân cách liên quan đến truyền thống lịch sử và nền văn hóa của từng quốc gia. Nó
được kết tinh trong mỗi con người và cộng đồng, tạo nên bản lĩnh và tính cách đặc trưng
của con người lao động trong quốc gia đó.
Quan điểm trên đây nhìn nhận nguồn nhân lực một cách toàn diện, coi nguồn
nhân lực không chỉ trên giác độ số lượng (nguồn lực lao động) mà cả về chất lượng (tiềm
năng phát triển). Theo cách tiếp cận này, cho rằng nguồn nhân lực là tất cả các kỹ năng
và năng lực của con người liên quan tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của quốc gia.
Các nguồn lực cơ bản của sự phát triển quốc gia thường có là: nguồn lực tài chính, nguồn
lực con người và nguồn lực vật chất; trong đó nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Là
"lao động sống" (Các Mác), nó làm cho các nguồn lực khác trở nên hữu dụng. Ngày nay
thế giới đang bước vào kỷ nguyên của nền văn minh thứ 5, trong đó trí tuệ và nền kinh tế
trí thức đang là cột trụ của sự phát triển. Các thành quả khoa học trở thành yếu tố sản
xuất và trở thành cấu phần của sản phẩm. Tỷ trọng hàm lượng chất xám trong mỗi sản
phẩm cao hay thấp thể hiện khả năng cạnh tranh của ngành nghề hay quốc gia đó. Vì vậy,
mặt chất lượng của nguồn nhân lực, yếu tố trình độ chuyên môn, kỹ năng chuyên nghiệp,
nhân cách, phẩm chất là những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá thực trạng và khả
năng phát triển nguồn nhân lực của tổ chức hoặc của từng quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực
Từ quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã hội, phát
triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về kiến thức kỹ năng và năng lực của mọi
người trong xã hội. Dưới góc độ kinh tế, quá trình này được mô tả như sự tích lũy vốn
con người và sự đầu tư vốn đó một cách hiệu quả vào sự phát triển của nền kinh tế. Dưới
góc độ của chính trị, phát triển nguồn nhân lực là nhằm chuẩn bị cho con người tham gia
chín chắn vào hoạt động chính trị như là công dân của một nền dân chủ. Dưới góc độ của
xã hội học thì phát triển nguồn nhân lực là góp phần giúp mọi người biết sống một cuộc
sống trọn vẹn, phong phú hơn; con người tiến từ cá nhân thành nhân cách, thành con
người xã hội. Phát triển nguồn nhân lực được hiểu là "cả một quá trình quan trọng mà
qua đó sự lớn mạnh của cá nhân hay tổ chức có thể đạt được những tiềm năng đầy đủ
nhất của họ theo thời gian" [18, tr. 23]. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc
gia trên thế giới đều quan tâm đến sự phát triển nguồn nhân lực, tạo ra đội ngũ nhân lực
có chất lượng, có trình độ cao, có khả năng nắm bắt khoa học công nghệ mới và ứng
dụng vào sản xuất đời sống. Phát triển nguồn nhân lực là một "quá trình làm biến đổi về
số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
nền kinh tế- xã hội" [6, tr. 13], đó là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và
biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất
và phẩm chất tâm lý - xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Với quan niệm con người là động lực và
đồng thời là mục tiêu của sự phát triển thì phát triển nguồn nhân lực không chỉ có mục
đích làm gia tăng về thu nhập của cải vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa
chọn của con người đối với môi trường xung quanh; tạo cho họ có cơ hội tiếp cận với
điều kiện và môi trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm
năng của con người phù hợp hơn với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Quá trình phát triển nguồn nhân lực gồm phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận
thức, tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người.
Như vậy, trên giác độ vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động đầu tư
nhằm tạo ra nguồn nhân lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân
phù hợp với yêu cầu của môi trường. Phát triển nguồn nhân lực có các cách thức sau:
- Phát triển về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và thay đổi cơ cấu của đội ngũ
nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện hoạt động mới. Sự thay đổi về
cơ cấu nhân lực của quốc gia diễn ra theo cơ cấu độ tuổi, cơ cấu khu vực phân bố nhân
lực và cơ cấu về giới.
- Phát triển về chất lượng là sự gia tăng mức sống, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật và sức khỏe của các thành viên trong xã hội hoặc trong tổ chức.
Thước đo để so sánh sự phát triển nguồn nhân lực qua các thời kỳ phát triển của một
quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau là chỉ số phát triển con người, do Liên hợp
quốc sử dụng. Từ năm 1990, UNDP đã đưa ra chỉ số HDI để đo đạc những khía cạnh cơ
bản của năng lực con người. HDI là một hệ tiêu chí có khoảng100 chỉ số thể hiện chất
lượng cuộc sống. Trong đó 3 chỉ số quan trọng nhất là: (i) chỉ số kinh tế (phản ánh qua
tổng sản phẩm xã hội bình quân đầu người - GDP/người); (ii) năng lực sinh thể (phản ánh
qua chỉ số tuổi thọ bình quân của người dân) và (iii) năng lực tinh thần (phản ánh qua chỉ
số giáo dục, xác định bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo
dục). Các chỉ số HDI cơ bản nêu trên mang giá trị từ 0 đến 1: chỉ số giáo dục được coi là
1 khi 100% người trên 15 tuổi biết đọc biết viết, và bằng 0 khi 0% người trên 15 tuổi
không biết đọc biết viết. Chỉ số tuổi thọ là 1 khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi, bằng 0 khi
tuổi thọ bình quân là 25 tuổi. Chỉ số kinh tế được coi là 1 khi GDP bình quân đầu người
đạt 40.000$/năm (tính theo sức mua tương đương), bằng 0 khi giá trị đó là 100$/năm. ở
Việt Nam, chỉ số HDI qua các năm được thông báo như sau:
Bảng 1.1: Chỉ số HDI của Việt Nam qua các năm
Năm 1992 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
HDI 0,539 0,634 0,639 0,666 0,671 0,682 0,688 0,689 o,691
Xếp
bậc
120 121 122 110 108 109 109 108
112
Nguồn: [29].
Qua chỉ số HDI nêu trên có thể thấy chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
hiện nay mặc dù đã có tiến bộ nhưng còn nhiều bất cập và phát triển nguồn nhân lực phải
được coi là yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới.
Trong mỗi tổ chức, phát triển nguồn nhân lực là việc phát triển về số lượng và
chất lượng