Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu ở nhiều
quốc gia không những ở các nước kém phát triển, mà ngay cả các nước có nền kinh tế
phát triển cao. ở nước ta, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 80% dân số sống ở nông
thôn, lao động nông nghiệp chiếm 75% lực lượng lao động xã hội và sản xuất nông
nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu là độc canh cây lúa, thuần nông, năng suất lao động
thấp. do đó đời sống nông dân nói chung còn thấp. Chỉ có phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa có hiệu quả, đạt năng suất cao, chất lượng tốt, chủng loại hàng hóa nông sản
phong phú thì mới cải thiện được đời sống dân cư ở nông thôn.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong hai vựa lúa lớn của cả
nước. Đây là vùng có điều kiện thâm canh phát triển nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo
để xuất khẩu, chăn nuôi. Nhưng sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa còn bộc
lộ nhiều yếu kém và khiếm khuyết. Cơ cấu kinh tế mang nặng tính chất thuần nông.
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn, song nông dân vẫn sống trong cảnh nghèo
nàn và lạc hậu, tỷ lệ nghèo đói vẫn còn khá cao (khoảng 20%). Vấn đề cơ bản và cấp
bách hiện nay là để đưa nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu thì phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, một yêu cầu bức xúc
cần được luận giải trên cả lý luận và thực tiễn. Do đó " Phát triển nông nghiệp hàng
hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải phá" được chọn làm đề tài
nghiên cứu của luận án này.
109 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3736 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải phá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng
sông Cửu Long - Thực trạng và giải phá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu ở nhiều
quốc gia không những ở các nước kém phát triển, mà ngay cả các nước có nền kinh tế
phát triển cao. ở nước ta, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 80% dân số sống ở nông
thôn, lao động nông nghiệp chiếm 75% lực lượng lao động xã hội và sản xuất nông
nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu là độc canh cây lúa, thuần nông, năng suất lao động
thấp... do đó đời sống nông dân nói chung còn thấp. Chỉ có phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa có hiệu quả, đạt năng suất cao, chất lượng tốt, chủng loại hàng hóa nông sản
phong phú thì mới cải thiện được đời sống dân cư ở nông thôn.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong hai vựa lúa lớn của cả
nước. Đây là vùng có điều kiện thâm canh phát triển nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo
để xuất khẩu, chăn nuôi... Nhưng sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa còn bộc
lộ nhiều yếu kém và khiếm khuyết. Cơ cấu kinh tế mang nặng tính chất thuần nông.
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn, song nông dân vẫn sống trong cảnh nghèo
nàn và lạc hậu, tỷ lệ nghèo đói vẫn còn khá cao (khoảng 20%). Vấn đề cơ bản và cấp
bách hiện nay là để đưa nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu thì phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, một yêu cầu bức xúc
cần được luận giải trên cả lý luận và thực tiễn. Do đó " Phát triển nông nghiệp hàng
hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải phá" được chọn làm đề tài
nghiên cứu của luận án này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nền nông nghiệp hàng hóa nói riêng, tạo
nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh" là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối kinh
tế của Đảng và Nhà nước ta.
Vì thế đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, nhiều công trình đã công bố,
như:
- Phát triển nông nghiệp hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước - Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội 1999.
- Phát triển kinh tế hàng hóa ở tỉnh Ninh Thuận: Thực trạng và giải pháp -
Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, của Nguyễn Bá Ninh, Hà Nội 2000.
- Chính sách thị trường với phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chu Hữu
Quý và Nguyễn Kế Tuấn, Tạp chí cộng sản, (20) 10/1998.
- Đẩy mạnh phát triển một số hàng nông sản xuất khẩu có sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế của Lê Huy Ngọ, Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 2/1998.
Và nhiều tác phẩm liên quan khác.
Nhưng những công trình này chỉ mới đề cập đến những định hướng và một số
chủ trương lớn hoặc cụ thể để phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nông nghiệp hàng
hóa nói riêng chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống việc phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. Như vậy trên thực tế chưa có công trình nào trùng với tên
đề tài nghiên cứu luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích: Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
phương hướng, giải pháp đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa góp phần phát
triển kinh tế - xã hội ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung.
b) Nhiệm vụ:
- Làm rõ sự cần thiết và vai trò việc phát triển nông nghiệp hàng hóa ở
ĐBSCL.
- Phân tích tiềm năng, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở
ĐBSCL, đồng thời xác định rõ những nguyên nhân của thực trạng.
- Trình bày những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế
chính trị, chú ý vận dụng tổng hợp các phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, tổng
kết thực tiễn.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: là nông nghiệp hàng hóa.
- Thời gian: từ 1986 đến nay, ở ĐBSCL.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích làm rõ những tiềm năng và những yếu tố chi phối sự phát triển
nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL.
- Phân tích những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
hàng hóa ở ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận án kết cấu gồm 3 chương 7 tiết.
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: nông nghiệp hàng hóa: nội dung, vai trò và
những tiềm năng điều kiện phát triển nó ở
đồng bằng sông cửu long
4
1.1. Nông nghiệp hàng hóa: khái niệm và nội dung 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Nội dung phát triển nền nông nghiệp hàng hóa 6
1.2. Vai trò của nông nghiệp hàng hóa đối với phát triển kinh tế -
xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long
12
1.3. Tiềm năng, điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng
bằng sông Cửu Long
17
Chương 2: thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở
đồng bằng sông cửu Long và những vấn đề đặt
ra cần giải quyết
30
2.1. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông
Cửu Long
30
2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 53
2.2.1. cơ cấu sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp còn mất cân đối 53
2.2.2. Chất lượng hàng hóa nông, lâm, thủy sản nhìn chung còn thấp
không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
54
2.2.3. Về thị trường nông thôn 55
2.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp hàng hóa và cơ sở hạ 58
tầng cho nông thôn
Chương 3: Những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ
yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng
hóa ở đồng bằng sông cửu long
60
3.1. Những phương hướng chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long
60
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thúc đẩy nông nghiệp
hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long phát triển
68
3.2.1. Xây dựng các hộ nông dân thành đơn vị sản xuất hàng hóa gắn
liền với đổi mới kinh tế hợp tác và doanh nghiệp Nhà nước trong
nông nghiệp
68
3.2.2. Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và kết cấu
hạ tầng sản xuất nông thôn
73
3.2.3. Mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nông thôn 76
3.2.4. Tiếp tục hoàn thiện và chỉ đạo tốt một số chính sách kinh tế 82
Kết luận 95
Danh mục tài liệu tham khảo 97
Phụ lục 102
Chương 1
Nông nghiệp hàng hóa: Nội dung, vai trò
và những tiềm năng điều kiện phát triển nó
ở đồng bằng sông Cửu Long
1.1. Nông nghiệp hàng hóa: khái niệm, nội dung
1.1.1. Khái niệm
Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa, là hai hình thức kinh tế - xã hội đã hình
thành và tồn tại trong quá trình lịch sử nhân loại. Hai hình thức này được hình thành
và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao
động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi khác nhau.
Ai cũng biết rằng kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người, là kinh tế tự
nhiên, với đặc trưng chủ yếu là tự cung, tự cấp - tức sản phẩm lao động được sản xuất
ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất hoặc chỉ trong nội bộ đơn vị kinh tế.
Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp lại. Kinh tế nông dân kiểu
gia trưởng, công xã nông thôn nguyên thủy, các điền trang thái ấp của địa chủ. Và mỗi
đơn vị kinh tế ấy làm đủ các loại ngành nghề, sản xuất sản phẩm để tự tiêu dùng, sản
xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng mang tính tự cung tự cấp.
Trong nền kinh tế tự nhiên, con người dựa chủ yếu vào tự nhiên và khai thác
tự nhiên, do đó có thể nói rằng trong nền kinh tế này, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ
yếu của người lao động và nông nghiệp là ngành sản xuất chính, kỹ thuật, công cụ lao
động, phương thức canh tác lạc hậu và thô sơ.
Xã hội loài người "chìm đắm" trong nền kinh tế tự nhiên hàng nghìn năm rồi
mới phát triển lên kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa là loại hình tổ chức kinh tế - xã hội cao hơn kinh tế tự nhiên.
Phân công xã hội là cơ sở chung của mọi nền kinh tế hàng hóa. Song, chỉ riêng phân
công xã hội thì chưa đủ điều kiện cho sự xuất hiện kinh tế hàng hóa. Tính tách biệt
tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là điều kiện thứ hai, cần và đủ cho
sự ra đời kinh tế hàng hóa.
Như vậy, rõ ràng là cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, của
sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất và tính độc lập tương đối về
kinh tế của các chủ thể sản xuất, xã hội loài người bước vào giai đoạn phát triển kinh
tế mới, cao hơn - kinh tế hàng hóa.
Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế hàng hóa do cách tiếp cận và khái
quát không giống nhau. Tham khảo và kế thừa các quan niệm của các tác giả đi trước
về phạm trù kinh tế hàng hóa, chúng tôi cho rằng nói đến kinh tế hàng hóa thì phải
biểu đạt được các đặc trưng bản chất của nó, như: kinh tế hàng hóa là nền kinh tế sản
xuất ra hàng hóa và dịch vụ để trao đổi, mua bán trên thị trường, tức là sản xuất theo
nhu cầu của xã hội thể hiện trên thị trường; là một hình thức tổ chức kinh tế - xã hội
trong đó các mối quan hệ kinh tế cơ bản được thể hiện thông qua quan hệ mua bán trên
thị trường; chi phối các mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy là các quy luật của kinh tế hàng
hóa: quy luật giá trị, quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh... Kinh tế hàng hóa có
nhiều ưu thế, như: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng phân công lao động
xã hội, thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội; là hình thức thể hiện và thực hiện xã
hội hóa lao động và sản xuất; kích thích việc nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa
và dịch vụ; kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể sản xuất - kinh doanh
và có tác dụng là khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của xã hội...
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa cũng có những hạn chế của nó như: do cạnh tranh
dẫn đến tính tự phát, mất cân đối trong kinh tế, phân hóa người sản xuất, do chạy theo
lợi nhuận tối đa nên có thể dẫn đến sự tàn phá, hủy hoại môi trường, môi sinh... Do đó,
đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước để khắc phục hạn chế của kinh tế hàng hóa.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định rõ ràng: "Sản xuất hàng hóa không đối
lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã xây dựng
xong" [19, 97].
Kinh tế hàng hóa, nếu xét theo phạm vi hoạt động và tính chất khu vực thì ở
mỗi quốc gia đều bao gồm các bộ phận hợp thành là kinh tế hàng hóa thành thị và kinh
tế hàng hóa nông thôn.
Kinh tế hàng hóa nông thôn bao gồm toàn bộ các hoạt động sản xuất hàng hóa
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ diễn ra trên địa bàn nông thôn.
Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa nói chung, nó
sản xuất ra nông sản phẩm (nông, lâm, ngư nghiệp) không phải để tự tiêu dùng của
người sản xuất, mà là để trao đổi, để bán trên thị trường, nó là hình thức tổ chức kinh
tế - xã hội, trong đó có mối quan hệ kinh tế giữa người với người, giữa các chủ thể với
nhau được thể hiện thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường, quan hệ hàng hóa -
tiền tệ, quan hệ thị trường, quan hệ hạch toán... là những quan hệ kinh tế chủ yếu của
loại hình này, chịu sự chi phối bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của quan
hệ sản xuất, thiết chế kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, văn hóa... trong đó trực tiếp
và khách quan là sự tác động của các quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật
cạnh tranh.
Nền nông nghiệp hàng hóa ra đời đối lập với nền nông nghiệp tự cung tự cấp.
Nó có nhiều ưu thế so với nông nghiệp tự túc tự cấp. Vì vậy, trong lịch sử phát triển
kinh tế của xã hội loài người thì sự ra đời và phát triển của nông nghiệp hàng hóa được
coi là một bước tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát triển của nền văn minh nhân
loại.
1.1.2. Nội dung phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
1.1.2.1. Xây dựng cơ cấu sản phẩm, kinh tế nông nghiệp hàng hóa hợp lý
Nông nghiệp hàng hóa hiểu theo nghĩa rộng sản phẩm của nó đa dạng bao
gồm sản phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Mỗi ngành lại
chia thành những phân ngành nhỏ hơn, chẳng hạn như ngành nông nghiệp phân thành
ngành trồng trọt, chăn nuôi. Đến lượt ngành trồng trọt lại chia thành cây lương thực,
cây rau đậu ngắn ngày, cây công nghiệp, cây ăn quả... Đi liền với sự phân công lao
động sâu sắc là sự phân ngành càng chi tiết, đa dạng hơn. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin không những đã coi phân công lao động là một trong hai
điều kiện ra đời và tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nói chung và nông nghiệp hàng
hóa nói riêng, mà còn đặt nó trong mối quan hệ với cách
mạng kỹ thuật, với quy mô trao đổi, với quy mô thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà
C.Mác và V.I.Lênin đã nói về quan hệ giữa phân công lao động xã hội với khái niệm
thị trường nói chung và thị trường nông thôn
nói riêng: "Thị trường của những hàng hóa đó phát triển nhờ sự phân công lao động"
[34].
Xét thuần túy về mặt kỹ thuật của lao động thì phân công lao động là sự
chuyên môn hóa lao động trong quá trình tái sản xuất xã hội. Phân công lao động xã
hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và của việc ứng dụng những tiến bộ
khoa học công nghệ vào sản xuất và thị trường là hệ quả tất yếu của phân công lao
động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Phân công lao động xã hội càng phát triển, tiến
bộ khoa học công nghệ càng được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, thì quy mô dung
lượng của thị trường theo đó cũng được mở rộng. Hay nói một cách khác tổng quát,
quy mô, dung lượng của thị trường do tác động của nền kinh tế quyết định.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ nói chung
và chuyên môn hóa lao động nói riêng, làm cho năng suất lao động xã hội ngày càng
tăng, số lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng cao, chủng loại
ngày càng đa dạng phong phú. Do đó quy mô trao đổi và thị trường sẽ được mở rộng
ra. V.I.Lênin viết: "Trong nền kinh tế hàng hóa thị trường chẳng qua chỉ là một sự biểu
hiện của phân công lao động xã hội" [34, 117]. Sản xuất hàng hóa phát triển "thị
trường mở rộng, sự phân công lao động xã hội lại được một đà thúc đẩy mới làm cho
nó phát triển thêm, sâu sắc thêm" [34, 145].
Nông sản phẩm được tạo ra trong sản xuất của ngành nông nghiệp được mang
đi trao đổi trên thị trường với tư cách một hàng hóa thì thị trường nông phẩm cũng
xuất hiện. ở đây, các yếu tố, các điều kiện, các phương tiện và môi trường... để thực
hiện giá trị hàng hóa nông phẩm cũng giống như các thị trường hàng hóa thông thường
khác. Cơ chế thị trường bắt buộc mọi người thực hiện ý chí của mình theo quy luật
kinh tế khách quan vốn có của nó.
Về mặt không gian vùng lãnh thổ, thì nông nghiệp hàng hóa bao gồm các vùng
khác nhau. Những vùng kinh tế hình thành do phân công lao động theo lãnh thổ trên
phạm vi nông thôn cả nước, chẳng hạn như vùng chuyên canh lúa, vùng cây công
nghiệp, vùng chuyên canh cây ăn quả, vùng chăn nuôi... Sự chuyên môn hóa sản xuất
theo vùng nhằm bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ sao cho thích hợp để
khai thác được mọi ưu thế về nguồn lực của mỗi vùng, căn cứ vào điều kiện kinh tế, kỹ
thuật và tự nhiên của từng vùng. Xu thế phát triển của kinh tế vùng là ngày càng
chuyên môn hóa và tập trung hóa, hình thành trên các vùng trọng điểm sản xuất hàng
hóa có hiệu quả kinh tế cao, để từ đó mở rộng ra các ngành khác. Còn trong mỗi vùng,
lại dựa vào ngành sản xuất chuyên môn hóa mà phát triển mạnh mẽ ngành chuyên môn
hóa, đồng thời khai thác một cách đầy đủ nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và
lao động của từng vùng ở nông thôn.
Về mặt kinh tế xã hội, kinh tế hàng hóa nói chung và nông nghiệp hàng hóa
nói riêng ở nông thôn, tồn tại và phát triển được trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp
nhiều thành phần. Do trình độ phát triển và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất
không đều nhau, nên quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối) cũng mang tính đa dạng, bên cạnh đó thì thích ứng với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có những quan hệ sản
xuất, thành phần kinh tế cũng như hình thức tổ chức kinh tế tương ứng.
Mặc dù mỗi thành phần kinh tế có bản chất, lợi ích và đặc trưng riêng. Song
chúng không biệt lập với nhau, mà ngược lại có mối quan hệ tác động với nhau, vì
chúng cùng tham gia vào hệ thống phân công xã hội, chúng vừa cạnh tranh vừa hợp
tác với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Nhận thức đúng đắn sự tồn tại khách quan, tính đa dạng về hình thức sở hữu
và thành phần kinh tế... là cơ sở để đa dạng hóa các hình thức tổ chức nông nghiệp
hàng hóa.
1.1.2.2. Nâng cao tỷ suất và chất lượng nông sản hàng hóa
Thực chất của việc phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nông nghiệp hàng
hóa nói riêng là tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều về số lượng, phong phú đa
dạng về chủng loại và chất lượng hàng hóa tốt, giá cả được người tiêu dùng chấp nhận.
Hiểu theo nghĩa đơn giản, tỷ suất hàng hóa là tỷ lệ phần trăm số lượng sản phẩm
của một ngành được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường.
Tỷ suất hàng hóa nông nghiệp hàng hóa thấp hơn trong kinh tế công nghiệp
thành thị. Vì đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp, về mặt tự nhiên có thể tiêu dùng
trực tiếp và thiết yếu nên nó được giữ lại một phần cho tiêu dùng của người sản xuất, ở
đây có tính chất hàng hóa, có tính tự cấp tự túc hòa trộn với nhau. Tất nhiên nông
nghiệp hàng hóa nông thôn càng phát triển thì tính thứ nhất (hàng hóa) càng tăng lên.
Lênin viết: "Ngay bản thân quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm đã diễn
ra không hoàn toàn giống như trong nền công nghiệp nhà máy, trong nền công nghiệp
quá trình ấy diễn ra dưới hình thức giản đơn và theo đường thẳng, còn trong nông
nghiệp chúng ta thấy khác hẳn; ở đây hiện tượng chủ yếu là sự hỗn hợp giữa nông
nghiệp có tính chất thương nghiệp với nông nghiệp không có tính chất thương nghiệp,
ở đây những hình thức khác nhau đã được kết hợp lại. ở từng địa phương, chủ yếu
mang ra thị trường là một thứ sản phẩm nào đó. Một mặt, nền sản xuất của địa chủ mà
đặc biệt là của nông dân là nền sản xuất hàng hóa, mặt khác nền sản xuất đó còn giữ tính
chất tiêu dùng" [33].
Phát triển phân công lao động trong nông nghiệp, mở mang ngành, nghề, tăng
năng suất lao động, đất đai, cây trồng vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị
trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp... là con đường để nâng cao tỷ suất hàng hóa, chất lượng hàng hóa nông
sản.
1.1.2.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển dịch vụ hỗ
trợ nông nghiệp, nông thôn
Tạo ra được một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và tổ chức tốt hệ thống dịch
vụ hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có ý nghĩa hàng đầu đối với việc
chuyển đổi và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Đó
cũng là nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm hệ thống cơ sở vật chất phục vụ sản
xuất và đời sống ở nông thôn như: điện, nước sạch, các công trình thủy lợi, đường giao
thông nông thôn, trường học, các cơ sở y tế... có thể nói gọn trong mấy từ "điện,
đường, trường, trạm".
Hệ thống dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp nông thôn nhằm hỗ trợ đầu vào, đầu ra
cho sản xuất nông nghiệp, nó bao gồm hệ thống chợ, các cửa hàng, hệ thống dịch vụ
kỹ thuật ở nông thôn, trong đó tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và công
tác khuyến nông... đóng vai trò chủ lực, quan trọng.
Đặc biệt là phải phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông lâm,
thủy sản. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản làm tăng giá trị thương phẩm của
nông, lâm nghiệp, thủy sản đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Phát triển
công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông sản phẩm c