Luận văn Phiếu khảo sát sản phẩm khai thác (Lưới kéo)

Nghề lưới kéo là một ngành nghề phổ biến được sử dụng rộng rãi ở nước ta và trên thế giới. So với các quốc gia có biển khác thì nghề lưới kéo nước ta kém phát triển hơn mà chủ yếu khai thác tập trung ven bờ ở độ sâu từ 50 đến 80 mét. Một số tàu thuyền cũng được trang bị về kích thước, phụ tùng và máy móc hỗ trợ khai thác xa bờ nhưng vẫn chưa phát triển rộng rãi. Nghề lưới kéo nước ta khai thác chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đi biển lâu năm của ngư dân, kích thước tàu thuyền tương đối nhỏ, sản lượng khai thác chưa cao. Do đó nó đang là nguy cơ huỷ hoại nguồn lợi thủy sản lớn nhất ở vùng ven biển nước ta. Để nghề lưới kéo nước ta nói riêng và thế giới nói chung phát triển bền vững thì cần phải giải quyết các vấn đề như sau: 1. Tiến hành nghiên cứu khai thác vùng nước có độ sâu lớn. 2. Khai thác các khu vực biển có nền đáy xấu như rạn đá và chướng ngại vật khác. 3. Khai thác các vùng nước đại dương thế giới. 4. Cơ khí hóa và tự động hóa quá trình đánh bắt. 5. Nghiên cứu giảm bớt thời gian của chu kỳ khai thác. 6. Sử dụng các tác nhân vât lý trong lưới kéo nhằm tăng hiệu quả khai thác. Ở nước ta có các vùng phát triển mạnh như Kiên Giang, Vũng Tàu, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa Với tầm quan trọng của nghề cá, hiện nay nhà nước ta đã và đang tập trung đầu tư rất lớn vào nghề cá đặc biệt là nghề lưới kéo khai thác cá xa bờ. Nhiều tàu được trang bị máy công suất lớn, trang thiết bị phục vụ khai thác cá hiện đại và ngư cụ đã được cải tiến để đưa vào sử dụng. Để tìm hiểu về nghề lưới kéo tôi được nhà trường giới thiệu đến tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tại cơ sở thực tập tàu cá BV 8874TS và BV 98688TS. Nội dung của bài báo cáo thực tập nghề lưới kéo: Chương I: Khái quát nghề lưới kéo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Chương II: Tìm hiểu tàu thuyền và các trang thiết bị khai thác Chương III: Ngư cụ Chương IV:Quy trình khai thác và thực trạng sản phẩm Chương V:Hoạch toán chuyến biển Chương VI: Phần nhận xét đánh giá Chương VII: Những quy định và chính sách nghề cá

doc44 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phiếu khảo sát sản phẩm khai thác (Lưới kéo), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG KHOA KHAI THÁC BỘ MÔN CÔNG NGHỆ KHAI THÁC THỦY SẢN ((((((((( PHIẾU KHẢO SÁT SẢN PHẨM KHAI THÁC (LƯỚI KÉO) GVHD : Th.S HỒ NGỌC ĐIỆP Th.S NGUYỄN TRỌNG LƯƠNG G.v: PHẠM VĂN THÔNG SVTH : PHAN XUÂN LUÂN LỚP : 49HHKT MSSV : 4913022033 Nha Trang, thaùng 11 naêm 2010 LỜI MỞ ĐẦU Nghề lưới kéo là một ngành nghề phổ biến được sử dụng rộng rãi ở nước ta và trên thế giới. So với các quốc gia có biển khác thì nghề lưới kéo nước ta kém phát triển hơn mà chủ yếu khai thác tập trung ven bờ ở độ sâu từ 50 đến 80 mét. Một số tàu thuyền cũng được trang bị về kích thước, phụ tùng và máy móc hỗ trợ khai thác xa bờ nhưng vẫn chưa phát triển rộng rãi. Nghề lưới kéo nước ta khai thác chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đi biển lâu năm của ngư dân, kích thước tàu thuyền tương đối nhỏ, sản lượng khai thác chưa cao. Do đó nó đang là nguy cơ huỷ hoại nguồn lợi thủy sản lớn nhất ở vùng ven biển nước ta. Để nghề lưới kéo nước ta nói riêng và thế giới nói chung phát triển bền vững thì cần phải giải quyết các vấn đề như sau: Tiến hành nghiên cứu khai thác vùng nước có độ sâu lớn. Khai thác các khu vực biển có nền đáy xấu như rạn đá và chướng ngại vật khác. Khai thác các vùng nước đại dương thế giới. Cơ khí hóa và tự động hóa quá trình đánh bắt. Nghiên cứu giảm bớt thời gian của chu kỳ khai thác. Sử dụng các tác nhân vât lý trong lưới kéo nhằm tăng hiệu quả khai thác. Ở nước ta có các vùng phát triển mạnh như Kiên Giang, Vũng Tàu, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa… Với tầm quan trọng của nghề cá, hiện nay nhà nước ta đã và đang tập trung đầu tư rất lớn vào nghề cá đặc biệt là nghề lưới kéo khai thác cá xa bờ. Nhiều tàu được trang bị máy công suất lớn, trang thiết bị phục vụ khai thác cá hiện đại và ngư cụ đã được cải tiến để đưa vào sử dụng. Để tìm hiểu về nghề lưới kéo tôi được nhà trường giới thiệu đến tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tại cơ sở thực tập tàu cá BV 8874TS và BV 98688TS. Nội dung của bài báo cáo thực tập nghề lưới kéo: Chương I: Khái quát nghề lưới kéo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Chương II: Tìm hiểu tàu thuyền và các trang thiết bị khai thác Chương III: Ngư cụ Chương IV:Quy trình khai thác và thực trạng sản phẩm Chương V:Hoạch toán chuyến biển Chương VI: Phần nhận xét đánh giá Chương VII: Những quy định và chính sách nghề cá Trong thời gian thực tập tôi xin chân thành cám ơn các Thầy giáo huớng dẫn trong Bộ môn đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ chúng em. Ngoài ra, tôi cung gửi lời cám ơn chân thành tới anh Nguyễn Minh Tuấn và Phạm Bá Dửng là thuyền truờng các tàu BV 8874TS và BV 98688TS cùng anh em thủy thủ trên tàu đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đợt thực tập này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Nha Trang, ngày 19 tháng 11 năm 2010 Sinh viên thực hiện Phan Xuân Luân Mục lục CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NGHỀ LƯỚI KÉO TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 6 I. KHÁI QUÁT NGHỀ LƯỚI KÉO TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 6 1. Tổng quan về nghề lưới kéo tỉnh 6 2. Thực trạng 7 II. NGƯ TRƯỜNG VÀ NGUỒN LỢI THỦY SẢN 10 1. Điêu kiện tự nhiên và Ngư trường khai thác 10 2. Nguồn lợi thủy sản 11 CHƯƠNG II TÀU THUYỀN VÀ TRANG THIẾT BỊ KHAI THÁC 15 I. VỎ TÀU 15 1.Tàu Cái 15 2. Tàu Ðực 15 III. THỜI GIAN KHẤU HAO VỎ TÀU 17 IV. GIÁ THÀNH VỎ TÀU 17 IV. MÁY TÀU 17 V. TRANG THIẾT BỊ KHAI THÁC 18 1. Máy tời 18 2. Hệ thống cẩu 19 3. Hệ thống ròng rọc định hướng 19 4. Máy điện hàng hải 20 CHƯƠNG III NGƯ CỤ 21 I. CẤU TẠO TỔNG THỂ LƯỚI KÉO ĐÁY 21 1. Áo lưới 21 2. Các loại dây trong lưới kéo và hệ thống lưới kéo 23 3. Các phụ tùng lưới kéo 26 II. BẢN VẼ KHAI TRIỂN LƯỚI KÉO ĐÁY 28 III. QUY TRÌNH THI CÔNG, LẮP RÁP LƯỚI KÉO ĐÁY 28 1. Phần áo lưới 28 2. Quy trình – bản vẽ chi tiết lắp ráp 30 3. Liên kết giữa các bộ phận của ngư cụ 32 V. CÁC BẢNG BIỂU 32 CHƯƠNG IV QUY TRÌNH KHAI THÁC VÀ THỰC TRẠNG SẢN PHẨM 34 I. QUY TRÌNH KHAI THÁC 34 II. SẢN PHẨM KHAI THÁC 36 CHƯƠNG V HOẠCH TOÁN KINH TẾ 40 I. Chi phí chuyến biển 40 II. Doanh thu chuyến biển 40 III. Phân chia thành quả lao động 40 IV. Chi phí khác 41 V. Các tai nạn thường xẩy ra trong thời gian thực tập 41 CHƯƠNG VI NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ 42 CHƯƠNG VII NHỮNG QUY ĐỊNH VÀ CHÍNH SÁCH NGHỀ CÁ 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO 44 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NGHỀ LƯỚI KÉO TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU KHÁI QUÁT NGHỀ LƯỚI KÉO TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 1. Tổng quan về nghề lưới kéo tỉnh Toàn tỉnh hiện có gần 2.300 tàu cá đánh bắt xa bờ, trong đó, nghề lưới kéo chiếm vị trí ưu thế với gần 1.900 chiếc, gần bằng 40% tổng số tàu cá. Hầu hết tàu cá khai thác nghề lưới kéo vẫn mang tính chất của nghề cá quy mô nhỏ, tàu được đóng bằng gỗ, 60% tàu sử dụng máy cũ hoặc chuyển đổi từ các máy ôtô vận tải hạng nặng. (Theo báo Bà Rịa – Vũng Tàu 08/10/2009) Theo số liệu của Chi cục BVNL thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu, Số tàu thuyền trong toàn tỉnh khá lớn và không ngừng sự gia tăng theo thời gian, nhất là đối với phương tiện có công suất lớn - khai thác xa bờ. Mức tăng số lượng tàu trong thời kỳ 1995 - 2002 là 52,4%; tốc độ tăng bình quân 6,2% /năm. Tương ứng với sự tăng trưởng về số lượng tàu, công suất tàu cũng được gia tăng nhanh chóng, đặc biệt ở thời kỳ 1997, 1998 có sự đột biến do việc đầu tư đóng mới và nâng cấp tàu thuyền để khắc phục hậu quả bão số 5 và vươn ra khai thác xa bờ. Mức tăng công suất tàu trong 'thời kỳ 1995 - 2002 là 232%; Tương ứng với tốc độ tăng bình quân 18,7% năm. Đây cũng là mức tăng khá so với vùng Nam bộ,cả nước. Công suất trung bình trên một đơn vị tàu đạt 40,6 cv/năm 1995 và tăng lên 88,3 cv/ năm 2002, vào loại cao nhất trong cả nước. Công suất máy nằm trong khoảng từ 20 - 600 cv có cả máy thủy và máy bộ Hino lấp đặt trên tàu. Có khoảng 22 nhãn hiệu máy khác nhau, trong đó, chủ yếu là các máy của Nhật; và các máy Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức... Các nhãn hiệu máy phổ biến: Yanmar, Daiya, Hino, Cummin, Misubishi, Caterpillar, Kubota, Isuzu, Komas, Đeadong, Deawo ....... Máy móc điện phục vụ hàng hải, khai thác có mặt của các loại máy như ra đa, định vị GPS, đàm thoại,... ở những tàu xa bờ. Số tàu có trang bị định vị 3.106 chiếc, chiếm 68% tổng số tàu thuyền máy, trang bị máy thông tin liên lạc 3.540 chiếc, chiếm 77% tổng số tàu thuyền máy. Loại máy cũng rất đa dạng, phong phú nhưng chủ yếu là những máy được sản xuất ở Nhật, Mỹ, Đức, Thái Lan; các hiệu máy thường gặp là: Furuno, Sonar, Galassy, Lowrance, Hondex.... Tổ chức khai thác hải sản theo hình thức doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác, hộ và nhóm hộ gia đình. Toàn tỉnh chỉ có một đội tàu quốc doanh thuộc Công ty Xuất Nhập khẩu Côn Đảo (với 8 tàu khai thác khơi, tổng công suất 2.415 cv khai thác không hiệu quả). Các ngư trường khai thác chính của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu trước đây là vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, cửa sông Cửu Long, Côn Sơn, Đông và Tây Mũi Cà Mau. Có sự di chuyển đến các ngư trường biển Tây theo mùa vụ, thường vào mùa gió Đông Bắc. Thời gian hoạt động trên biển của tàu thuyền trong năm đạt khá cao : tứ 200 – 250 ngày. Đối với những tàu cào lớn có thể hoạt động đến 300, 310 ngày/ năm hoặc hơn. Ngư trường Bà Rịa - Vũng Tàu có mật độ tàu thuyền cao, có hàng ngàn tàu thuyền di chuyển ngư trường đến khai thác theo mùa vụ.  Sản lượng khai thác hải sản hàng năm của Bà Rịa - Vũng Tàu tăng khá nhanh, đặc biệt là nghề lưới kéo đánh cá bò ở Vũng Tàu có năng suất cao. 2. Thực trạng a. Khai thác thủy sản: Tàu thuyền trong các năm qua liên tục tăng về số lượng, công suất, có sự biến đổi lớn về cơ cấu nhóm công suất của đội tàu. (Theo số liệu của Chi cục BVNL thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu) Số tàu thuyền trong toàn tỉnh khá lớn và không ngừng sự gia tăng theo thời gian, nhất là đối với phương tiện có công suất lớn - khai thác xa bờ. Mức tăng số lượng tàu trong thời kỳ 1995 - 2002 là 52,4%; tốc độ tăng bình quân 6,2% /năm. Tương ứng với sự tăng trưởng về số lượng tàu, công suất tàu cũng được gia tăng nhanh chóng, đặc biệt ở thời kỳ 1997, 1998 có sự đột biến do việc đầu tư đóng mới và nâng cấp tàu thuyền để khắc phục hậu quả bão số 5 và vươn ra khai thác xa bờ. Mức tăng công suất tàu trong 'thời kỳ 1995 - 2002 là 232%; Tương ứng với tốc độ tăng bình quân 18,7% năm. Đây cũng là mức tăng khá so với vùng Nam bộ,cả nước. Công suất trung bình trên một đơn vị tàu đạt 40,6 cv/năm 1995 và tăng lên 88,3 cv/ năm 2002, vào loại cao nhất trong cả nước. Cơ cấu công suất nhóm tàu cũng thay đổi một cách rõ rệt. Nếu như ở những năm 1995, 1996 nhóm tàu công suất nhỏ hơn 90 cv chiếm xấp xỉ 90% thì đến những năm 2001 nhóm tàu này chỉ còn chiếm khoảng hơn 60%. Nhóm tàu công suất trên 90 cv từ 10%/năm 1995 tăng lên xấp xỉ 40% vào năm 2002. Nhóm tàu khai thác khơi, công suất từ 90 cv trở lên - năm 2002 thì đội tàu của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 1 .743 chiếc, chiếm 29% của cả nước (6.075 chiếc). Phân loại tàu thuyền của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2002 theo huyện. b. Nghề khai thác hải sản ở Bà Rịa – Vũng Tàu có ở hầu hết các huyện trong tỉnh (trừ huyện Châu Đức), nhưng tập trung lớn nhất ở huyện Long Đất và Tp.Vũng Tàu c. Máy móc, trang thiết bị, ngư cụ Công suất máy nằm trong khoảng từ 20 - 600 cv có cả máy thủy và máy bộ Hino lấp đặt trên tàu. Có khoảng 22 nhãn hiệu máy khác nhau, trong đó, chủ yếu là các máy của Nhật; và các máy Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức... Các nhãn hiệu máy phổ biến: Yanmar, Daiya, Hino, Cummin, Misubishi, Caterpillar, Kubota, Isuzu, Komas, Đeadong, Deawo ....... Máy móc điện phục vụ hàng hải, khai thác có mặt của các loại máy như ra đa, định vị GPS, đàm thoại,... ở những tàu xa bờ. Số tàu có trang bị định vị 3.106 chiếc, chiếm 68% tổng số tàu thuyền máy, trang bị máy thông tin liên lạc 3.540 chiếc, chiếm 77% tổng số tàu thuyền máy. Loại máy cũng rất đa dạng, phong phú nhưng chủ yếu là những máy được sản xuất ở Nhật, Mỹ, Đức, Thái Lan; các hiệu máy thường gặp là: Furuno, Sonar, Galassy, Lowrance, Hondex.... Máy móc khai thác: Có máy tời thu dây (cáp léo, dây đỏi, dây giềng, dây câu), tời thu lưới (lưới kéo, lưới vây) phục vụ cho các nghề: lưới kéo, vây, rê, câu, dập ghẹ..... Vật liệu sử dụng chế tạo ngư cụ chủ yếu là các loại sợi tổng hợp PA (Nilon, Kapron), PE, PVC dạng sợi đơn và xe xoắn có độ bền cao ngay cả trong môi trường nước. Kích cỡ ngư cụ không lớn lắm: dài 15 ~ 60 m đối với lưới kéo; 300-1.000 m đối với lưới vây; 1.000 14.000 m đối với lưới rê. d. Tổ chức sản xuất và ngư trường khai thác Tổ chức khai thác hải sản theo hình thức doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác, hộ và nhóm hộ gia đình. Toàn tỉnh chỉ có một đội tàu quốc doanh thuộc Công ty Xuất Nhập khẩu Côn Đảo (với 8 tàu khai thác khơi, tổng công suất 2.415 cv khai thác không hiệu quả). Các ngư trường khai thác chính của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu trước đây là vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, cửa sông Cửu Long, Côn Sơn, Đông và Tây Mũi Cà Mau. Có sự di chuyển đến các ngư trường biển Tây theo mùa vụ, thường vào mùa gió Đông Bắc. Thời gian hoạt động trên biển của tàu thuyền trong năm đạt khá cao : tứ 200 – 250 ngày. Đối với những tàu cào lớn có thể hoạt động đến 300, 310 ngày/ năm hoặc hơn. Ngư trường Bà Rịa - Vũng Tàu có mật độ tàu thuyền cao, có hàng ngàn tàu thuyền di chuyển ngư trường đến khai thác theo mùa vụ.  e. Sản lượng khai thác hải sản hàng năm của Bà Rịa - Vũng Tàu tăng khá nhanh Năng suất khai thác trên đơn vị công suất giảm, từ: 0,75 tấn/ cv năm 1995 xuống còn 0,38 tấn /cv năm 2002. Trung bình thời kỳ 1995 - 2002 giảm 9,2%/ năm. Năng suất khai thác trên lao động cao ở các năm 1995-1996, 2002 và giảm vào giữa thời đoạn. Thời kỳ 1995 - 2002 tốc độ tăng công suất bình quân hàng năm 18,7%, nhưng sản lượng chỉ tăng 6,2%/năm, nhỏ hơn 3 lần của sự tăng công suất. Mặt khác, năng suất bình quân của 1 cv giảm 8,8%/năm. Nguyên nhân giảm năng suất khai thác hải sản do chuyển đổi lựa chọn đối tượng thủy sản khai thác có giá trị hơn; do cường độ khai thác gần bờ tăng cùng với sự suy giảm của nguồn lợi. Năng suất khai thác đạt cao ở các nghề lưới kéo (đơn, đôi), lưới vây và đạt thấp ở các nghề câu, rê... nghề lưới kéo đánh cá bò ở Vũng Tàu có năng suất cao hơn nghề lưới kéo mực ở Phước Tỉnh vv.. Năng suất khai thác trên đơn vị phương tiện cao nhất thuộc về Tp. Vũng Tàu, huyện Long Đất và thấp nhất thuộc về Tx.Bà Rịa. Tp. f. Khai thác thủy sản nội địa + Nghề khai thác thủy sản trên các sông ngòi, kênh, rạch và đồng ruộng trũng ở Bà Rịa - Vũng Tàu cũng như ở ĐNB là một nghề truyền thống đã có từ lâu đời. Với những ngư cụ thủ công thô sơ có kích cỡ nhỏ. Chủ yếu là nhóm ngư cụ cố định: đăng, nỏ, đáy, đó ; nhóm ngư cụ đóng: lưới rê (lưới cước) các loại và nhóm câu. ở những sông lớn còn thấy các loại ngư cụ hoạt động có tính chủ động và có sản lượng tương đối như lưới kéo tầng đáy loại nhỏ sử dụng các tàu kéo có công suất thấp (< 25 cv). Ngoài ra, tát cạn bắt kiệt vào mùa khô ở các thủy vực nồi địa cũng rất sôi động và đem lại sản lượng đáng kể. + Tuy nhiên, diện tích thủy vực nội địa của tỉnh khá nhỏ, chỉ có 10.990 ha, trong đó, 2.066 ha mặt nước hồ phục vụ cho nuôi thủy sản; 8.924 ha diện tích còn lại là các mặt nước sông suối có nguồn lợi thủy sản tự nhiên cho khai thác. Diện tích các thủy vực thực sự có khả năng phục vụ cho khai thác tự nhiên khoảng 6.540 ha. Khả năng khai thác thủy sản nội địa trên địa bàn tỉnh ước khoảng 300 tấn/năm. NGƯ TRƯỜNG VÀ NGUỒN LỢI THỦY SẢN  Điêu kiện tự nhiên và Ngư trường khai thác Chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa thuộc vùng duyên hải Nam bộ (NB), gần xích đạo, nền nhiệt cao, ít phân hoá theo mùa. Tuy vậy khí hậu trong tỉnh cũng hình thành 2 mùa rõ rệt: mùa khô gần 5 tháng (tháng 12-tháng 4); mùa mưa gần 7 tháng (tháng 5/tháng II); Có nhiều loại gió hoạt động, đổi chiều theo mùa. Gió thịnh hành là gió Đông Bấc, có tần suất 30-50% vào mùa Đông, và gió mùa Tây Nam có tần suất 60 - 70% vào mùa Hè. Tốc độ gió không cao, cực đại không vợt quá 30 m/s. Dông nhiều, tháng cao nhất là tháng 5 (có 20 ngày dông). ít bão. Biển của tỉnh thuộc vùng biển Đông Nam Bộ. Diện tích vùng đặc quyền kinh tế của biển ĐNB khoảng 297.000 km2, gấp trên 150 lần ( 150,37 lần) diện tích tự nhiên phần đất liền và hải đảo của tỉnh ( 1.975 , 1 5 km2 - NGTK tỉnh BRVT năm 2001). Độ sâu 50 m nước cách bờ 40-60 hải lý. Nền đáy bằng phẳng, ít dốc; chất đáy phổ biến là bùn, cát, vỏ sò, trong đó đáy bùn chiếm khoảng 50% diện tích. Tỉnh có 106 km chiều dài bờ biển (từ xã Bình Châu đến giáp Cần Giờ) và trên 110 km đờng bờ ven đảo. Có 6 cửa lượng lạch. Có một quần đảo Côn Sơn ở ngoài khơi (l đơn vị huyện). Có vùng rạn khoảng 7,5 km2.  Biển ĐNB nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có ảnh hưởng chế độ khí tượng hải văn, thiên về khí hậu xích đạo. Nhiệt độ trung bình của nước biển dao động 27,6 - 29,8('C, luôn cao hơn nhiệt độ không khí 1,5 - 3 độ; nồng độ muối trung bình 31 - 34%o (ppt) và có sự khác biệt theo mùa, vùng và tầng nước; đặc biệt sự khác biệt tập trung ở vùng nước cửa sông giữa mùa ma và mùa khô chênh lệch 5 - 8%o. Vùng biển chịu ảnh hưởng chủ yếu của 2 loại gió mùa Đông Bắc và Tây Nam theo mùa rõ rệt, cường độ gió không cao, ít có bão xây ra (tần suất 4,2%/năm), hàng năm cho phép các tàu thuyền đánh cá hoạt động khoảng 250 ngày. Tuy nhiên, vùng biến này có nhiều dông nhất trong năm, trung bình 100 - 140 ngày dông/năm. Khi có bão xây ra thường đi kèm hiện tượng nước biển dâng cao 2 - 3 m, có hại tới các công trình ven biển. Thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều 3 - 4 m; ảnh hưởng của thủy triều sâu vào đất liền 170 km đối với hệ thống sông Đồng Nai. Trong vùng biển có các vùng nước trồi, nước chìm, hình thành 5 bãi cá chính (Bắc Cù Lao Thu, Nam Cù Lao Thu, Côn Sơn, Cửa Sông Cửu Long, Ngư trường cá nối Vũng Tàu - Phan Thiết). Có 4 bãi tôm (Cù Lao Thu, Nam Vũng Tàu, cửa sông Cửu Long, Đông Nam mũi Cà Mau). Có 3 bãi mực, mực tập trung cao ở biển Phan Thiết và Vũng Tàu - côn Đảo. Nguồn lợi thủy sản Sinh vật phù du và động vật đáy biển Đông và Tây Nam bộ Về thực vật phù du trong hai vùng biển Đông và Tây Nam bộ đã xác định được 260 loài trong đó có 170 loài có ở vùng biển Tây, bao gồm ngành tảo silic (Bacillarieophyta), ngành tảo lam (Cyanophyta), ngành tảo giáp (Pyrophyta). Vùng biển gần bờ ở cả hai phía có số lượng thực vật phù du khá phong phú. Về động vật phù du đã xác định được 229 loài, không kể nguyên sinh động vật (Protozoa). Khối lượng của động vật phù du thuộc vùng biển không thua kém các vùng biển cùng vĩ độ khác. Các vùng tập trung các động vật phù du thường phân bố bên cạnh các vùng tập trung của thực vật phù du. Động vật đáy ở vùng biển gần bờ 30 m nước sâu (66 000 km2) biển Nam bộ dao động trong khoảng 399.200 -748.900 tấn (của ĐNB: 180.200-328.550 tấn trong diện tích 37.800 km2). Động vật đáy ở vùng biển xa bờ 200 m nước sâu (diện tích 192.100 km2) biển Nam bộ dao động trong khoảng 1.090.400 tấn (của ĐNB: 770.700 tấn, trong diện tích 163.000 km2). b. Nguồn lợi thủy sản Việc xác đình trữ lượng của vùng biển Nam Bộ (NB) chính xác là một việc khó vì chưa có các tài liệu điều tra khoa học mới. Sau khi đối chiếu các nguồn tài liệu; chọn trữ lượng cá, tôm, mực là 2.708.124 tấn và khả năng khai thác 1.082.189,5 tấn để làm cơ sở nghiên cứu quy hoạch (Bộ thủy sản năm 1999) (Nguồn : Bộ thủy sản tháng 8//999 - Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng, 9//997) Nguồn lợi giáp xác: ở vùng biển Việt Nam đã bất gặp 225 loài tôm thuộc 68 giống của 21 họ tôm biển khác nhau, trong đó, họ tôm hẹ có số lượng loài đông nhất: 77 loài chiếm 34,22%. Biển Đông Nam bộ là nơi có nguồn lợi tôm lớn nhất Việt Nam, tập trung nhiều loài tôm có giá trị kinh tế cao. Năng suất tôm ở các mẻ lới đã có xu thế suy giảm, nhất là sau năm 1979 đến nay. Động vật chân đầu Cephalopoda (mực): Biển Việt Nam có 53 loài động vật chân đầu, riêng vùng biển Đông Nam bộ chiếm 40 loài. Những loài có giá trị kinh tế là mực Ống và mực Nang các loại. Lớp hai vỏ (Bivalvia): Biển Việt Nam xác định được 13 họ với 26 loài 2 mảnh vỏ trong đó có các loại có sản lượng khá lớn và có giá trị kinh tế cao như Trai Ngọc, Nghêu, Sò, Điệp.... Khu hệ hải sản của vùng biển quan hệ với phức hệ nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của phức hệ đại dương và xích đạo nên thành phần loài cá, tôm, mực, đặc sản thể hiện khá đa dạng và phong phú. Cá đã điều tra được 661 loài, 319 giống thuộc 138 họ, trong đó họ cá mối (mối vạch, mối thường) và họ cá khế (chủ yếu là cá nục) chiếm tỷ trọng cao về giống loại và cơ cấu sản lượng. Những loài có sản lượng trên 1% tổng sản lượng theo thống kê nhiều năm có tới 11 họ . Tôm đã xác định được 35 loài thuộc 2 họ tôm he (Penaeidae) có 7 giống và họ tôm vỗ scyllarirdael có 2 giống. Trong số 35 loài tôm kể trên, số loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu chiếm đến 50%. Nhiều loài cua, ghẹ có giá trị kinh tế cao, tập trung ở khu vực thềm các đảo và ven bờ. Trong vùng biển Nam bộ (ĐNB và Tây Nam bộ) có 6 bãi cá; 5 bãi tôm; 3 bãi mực tốt nhất Việt Nam. Sáu bãi cá chính có tên là: Côn Sơn, cửa sông Tiền - sông Hậu, cù lao Thu, ngư  trường cá nổi, ngư trường biển Tây. Đặc trưng chủ yếu của chúng được mô tả như sau : Bãi cá Bắc Cù Lao Thu có độ sâu 50-200 m, chất đáy là bùn. Diện tích có thể khai thác được khoảng 6.041km2. Khả năng khai thác cho phép 9.120 tấn/năm. Bãi cá Nam Cù Lao Thu có diện tích 7.563 km2. Trữ lượng 53.000 tấn (44.070- 62.320 tấn), khả năng khai thác cho phép 15.960 tấn/năm. Trữ lượng 14.000 tấn , khả năng khai thác 7.000 tấn/năm. Bãi các Côn Sơn có diện tích 7.331 km2. Trữ lượng 28.620 tấn(15.284 – 41.986 tấn), khải năng khai thác cho phép 14.300 tấn/năm. Bãi cá cửa sông Cửu Long có diện tích khoảng 3.200 km2. Trữ lượng 14.000 tấn, khải năng khai thác 7.000 tấn/ năm. Ngư trường cá nổi quan trong nhất  phải kể đến là ngư trường biển Vũng Tàu và khu vực biển Phan Thiết có năng suất khai thác cao. Cá nổi lớn thành phần chủ yếu là cá Ngừ thuộc họ cá Thu Ngừ (Scombridae) ngoài ra còn một số loài khác như cá Kiếm (họ Xiphiidae), cá Nhám (Richahthidae), một số họ thuộc loại cá Nục (Carangidae), cá Chuồn (Exocoetidae) di cư theo mùa thành từng đàn. Trong 4 khu vực tập trung có 3 khu vực gần bờ, chỉ có khu vực Cù Lao Thu gồm một số loà
Luận văn liên quan